Gia Lai phát triển kinh tế trang trại

Bà con người dân tộc Gia Rai ở huyện
Đức Cơ trồng cỏ VA06 chăn nuôi bò.
Bà con người dân tộc Gia Rai ở huyện Đức Cơ trồng cỏ VA06 chăn nuôi bò.

Gia Lai là tỉnh đất rộng, người thưa, đất ba-dan màu mỡ, thuận lợi cho các loại cây công nghiệp dài ngày như cà-phê, cao-su, hồ tiêu, điều và chăn nuôi đại gia súc... Với 2.177 trang trại, tỉnh xác định KTTT là một hướng đi tích cực để xóa đói, giảm nghèo, ổn định cuộc sống. Từ đó, tỉnh  tập trung đầu tư kinh phí, hình thành những vùng kinh tế trang trại chuyên sâu và tập trung, như cây hồ tiêu ở Chư Sê, mía ở An Khê, Kbang, Ayun Pa; trang trại điều, bò ở Krông Pa.

Việc mở rộng các trang trại đi liền với việc phát triển KTTT, tỉnh ưu tiên xây dựng các nhà máy phục vụ chế biến và thu hoạch sản phẩm, như nhà máy chế biến hạt điều ở Krông Pa, bông vải và tiêu sạch ở Chư Sê; Nhà máy mía đường ở An Khê, Phú Thiện. Hướng đi đã rõ. Ngày càng có nhiều nông dân Gia Lai mạnh dạn đầu tư, mở rộng mô hình sản xuất.

Trang trại của ông Vũ Xuân Tình ở xã Ia Hiao (Phú Thiện), có tới bốn ha mặt nước, được xây tường bao vuông vắn,  nuôi hơn 6.000 con ba ba, các loại cá đặc sản và đàn lợn vài chục con, hằng năm ông thu nhập hơn 100 triệu đồng. Ít ai biết rằng, ông Tình từng bán căn nhà mặt tiền quốc lộ 25 để có tiền mua khu đất này, trước đây vốn chỉ là ruộng trũng, cỏ mọc um tùm. Vợ chồng anh Nguyễn Xuân Khanh, từ Hưng Hà (Thái Bình), đến lập nghiệp ở khối phố 10, thị trấn Phú Túc (huyện Krông Pa). Hơn mười năm "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời", dù rất chí thú làm ăn, nhưng đói khổ vẫn đeo đuổi. Năm 2005, được sự giúp đỡ của Hội Nông dân huyện, anh được vay vốn của Ngân hàng chính sách. Với quyết tâm thoát nghèo, khu đất gò đồi bạc màu ngày nào giờ đã thành trang trại rộng gần 10 ha trồng các loại cây: điều, cam, bưởi, chuối cùng gần 100 con bò, dê.

Anh Khanh cho biết: Nhờ có cán bộ khuyến nông, khuyến lâm giúp đỡ gia đình anh mới xây dựng được trang trại một cách khoa học. Chỗ đất thấp thì đào ao nuôi cá,  nơi bằng phẳng trồng điều; gò, đồi trồng cây ăn trái; vùng trũng ven suối thì trồng chuối và cỏ voi để lấy nguồn thức ăn chăn nuôi gia súc... Trang trại này là mô hình sản xuất nông nghiệp khép kín, mỗi năm thu lãi gần 100 triệu đồng sau khi đã trừ chi phí sản xuất.

Ở Gia Lai, hiện có khá nhiều nông dân, từ phát triển KTTT đã trở thành những tỷ phú. Tiêu biểu là ông Diệp Năng Thâm, chủ Doanh nghiệp tư nhân Tiểu Phụng ở thôn 2, xã Biển Hồ (TP Plây Cu) đang sở hữu trang trại 11,5 ha nuôi cá sấu, ba ba, đà điểu. Tháng 10-2008, ông Thâm đầu tư 20 tỷ đồng xây dựng nhà máy chế biến thức ăn gia súc, công suất 50 tấn/ngày. Ngoài việc cung ứng đủ thức ăn cho trang trại ông còn cung cấp khoảng 30% sản lượng thức ăn cho thị trường trên địa bàn tỉnh.

Tương tự, ông Trần Anh Kiệt đấu thầu 2.400 ha mặt nước hồ Ayun Hạ để nuôi cá nước ngọt, hằng năm khai thác hơn 300 tấn cá các loại, doanh thu bình quân một tỷ đồng/năm...

Bà con người dân tộc Gia Rai ở huyện Đức Cơ
trồng cỏ VA06 chăn nuôi bò.

Nếu như bình quân mỗi trang trại sử dụng 3 - 4 lao động thì toàn tỉnh Gia Lai có khoảng 8.000 lao động nông thôn được tạo việc làm thường xuyên. Mỗi trang trại thuê nhân công với mức thu nhập từ 800 nghìn đến một triệu đồng/người, nếu là lao động thời vụ thì trả công 40-50 nghìn đồng/ngày/người. Có những chủ trang trại, ngoài số tiền công còn dành một phần diện tích nhất định trong trang trại cấp cho người làm thuê để sản xuất riêng, giúp họ gắn bó lâu dài với trang trại.

Là tỉnh miền núi, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm  49%, trước đây, đồng bào dân tộc Gia Lai sản xuất nông nghiệp lạc hậu theo kiểu "Phát, đốt, chọc, trỉa", thì hiện nay, qua phát triển KTTT, nhiều người tiếp cận tiến bộ khoa học-kỹ thuật, làm quen với máy móc phục vụ sản xuất, giống mới. Nhiều người, sau vài năm đi làm thuê đã tách ra lập trang trại riêng.

Từ thực tế phát triển KTTT ở Gia Lai, có thể khẳng định, KTTT đã mang lại hiệu quả thiết thực về kinh tế-xã hội. Hiệu quả lớn nhất là sử dụng hiệu quả nguồn lợi đất đai. Từ KTTT, người nông dân tích lũy được vốn, kinh nghiệm trong quản lý và sản xuất, bước đầu tích tụ ruộng đất.

Mặt khác, KTTT thúc đẩy việc hình thành các cơ sở chế biến tập trung,  tạo điều kiện thu hút lao động nông thôn, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo và thúc đẩy quá trình CNH, HÐH nông nghiệp nông thôn. Tuy nhiên, đánh giá tổng thể, KTTT ở Gia Lai vẫn còn nhiều bất cập,  chưa phát triển đa dạng và bền vững. Trước hết là các vấn đề thuộc về chính sách.

Mặc dù Chính phủ đã có Nghị định số 03/NÐ-CP về phát triển KTTT; một số thông tư liên tịch quy định cụ thể tiêu chí cũng như các chính sách hỗ trợ, khuyến khích KTTT phát triển, nhưng do nhiều yếu tố tác động, việc triển khai các chính sách trên còn chậm, do vậy, đến nay, cả tỉnh vẫn còn hơn  50% số trang trại chưa được cấp chứng nhận quyền sử dụng đất. Chủ trang trại gặp nhiều khó khăn trong mở rộng quy mô sản xuất, tiếp cận vốn vay, tiêu thụ sản phẩm... Ðó là chưa kể các rủi ro như thiên tai, dịch bệnh, biến động về giá cả thị trường...

Chi cục trưởng Chi cục HTX và Phát triển nông thôn Gia Lai Phạm Văn Long, cho biết, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh đã có văn bản đề nghị UBND tỉnh cho phép thành lập hiệp hội, các chi hội, câu lạc bộ hoặc HTX trang trại làm chức năng cung cấp thông tin, hướng dẫn kỹ thuật, dự báo thị trường và lo đầu ra cho sản phẩm. Về lâu dài,  KTTT ở Gia Lai cần có định hướng rõ nét hơn, khắc phục sự mất cân đối về loại hình trang trại hiện nay do số trang trại trồng trọt chiếm số lượng lớn.

Trao đổi ý kiến với chúng tôi về vấn đề này, đồng chí KPă Thuyên, Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh, cho biết, ngành nông nghiệp đã chủ động tháo gỡ khó khăn cho nông dân, như chỉ đạo tập trung thực hiện Quyết định 03 của Chính phủ gắn với việc thực hiện Quyết định 80 của Chính phủ về chính sách khuyến khích tiêu thụ sản phẩm cho người sản xuất, thông qua hợp đồng, hình thành mối liên kết "bốn nhà". Những việc làm tích cực trên đây đã tạo điều kiện cho người sản xuất yên tâm về đầu ra  sản phẩm; vấn đề trợ giá, trợ cước, hỗ trợ vật tư... làm sao đến được tay người sản xuất trực tiếp mà không phải qua khâu trung gian, tránh thất thoát, lãng phí...

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cũng đã tham mưu UBND tỉnh tập trung chỉ đạo phát triển KTTT theo ba vùng cụ thể. Ðối với vùng ven đô, tập trung phát triển các trang trại chăn nuôi quy mô công nghiệp, trang trại kinh doanh rau, cây ăn quả theo hướng thâm canh, công nghệ cao, sử dụng ít đất. Ðối với vùng dân cư phát triển, tập trung khai hoang đất trống đồi núi trọc, chăn nuôi, cần có cơ chế hỗ trợ về chính sách và kinh phí cho các trang trại vùng này gắn với mở cơ sở đào tạo nghề, tuyển dụng lao động, ưu tiên cho lao động tại chỗ và người dân tộc thiểu số. Ðối với vùng đồng bào dân tộc thiểu số, hình thành trang trại mẫu theo địa bàn xã và cụm xã, trên cơ sở này từng bước giúp đồng bào thay đổi tập quán canh tác tự cấp, tự túc, chuyển sang sản xuất hàng hóa.

Bài và ảnh:  PHAN HÒA

Có thể bạn quan tâm