Quy hoạch tổng thể quốc gia chính là công cụ quản lý nhà nước trong việc phân bổ, sử dụng hiệu quả, hợp lý các nguồn lực của quốc gia để phát triển đất nước nhanh và bền vững. Theo kế hoạch, dự thảo Quy hoạch sẽ trình Quốc hội xem xét thông qua tại kỳ họp tháng 10/2022 tới đây.
Sắp xếp lại không gian phát triển
Quy hoạch tổng thể quốc gia sẽ cụ thể hóa chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2021-2030, nhằm bố trí không gian phát triển quốc gia một cách hợp lý dựa trên tiềm năng, thế mạnh của đất nước, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, hiện thực hóa mục tiêu, khát vọng thịnh vượng. Bộ trưởng Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng cho rằng, nội dung quan trọng khi lập Quy hoạch là phát triển quốc gia như một thể thống nhất, không bị chia cắt, ràng buộc bởi địa giới hành chính, giúp các nguồn lực được huy động và sử dụng một cách hiệu quả nhất vì lợi ích của đất nước, cùng với đó là các nội dung cụ thể hóa về mặt không gian phát triển, hiện thực hóa mục tiêu của Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.
Về phạm vi, Quy hoạch tập trung vào các vùng kinh tế, các mối quan hệ trong nội vùng, liên vùng để tạo nên các động lực mới. Về định hướng và tổ chức không gian phát triển các ngành, lĩnh vực, Quy hoạch tập trung vào các ngành kinh tế công nghiệp, nông nghiệp, du lịch; các ngành kết cấu hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật; lựa chọn ưu tiên không gian phát triển mang tính tổng thể trong từng giai đoạn, phù hợp nguồn lực huy động, hướng đến mục tiêu phát triển bền vững.
Nội dung Quy hoạch cũng định hướng phân vùng và liên kết vùng trên lãnh thổ quốc gia, bao gồm đất liền, các đảo, quần đảo, vùng biển và vùng trời một cách khoa học để tạo không gian phát triển đồng bộ; định hướng phát triển hệ thống đô thị và nông thôn, hoàn thiện kết cấu hạ tầng đồng bộ, gắn với sử dụng có hiệu quả tài nguyên và bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, bảo đảm quốc phòng, an ninh và hội nhập quốc tế hiệu quả.
Làm rõ hơn về một số nét phác thảo không gian phát triển đất nước theo dự thảo Quy hoạch, TS Trần Hồng Quang, Viện trưởng Chiến lược phát triển (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cho biết sẽ phát triển các hành lang kinh tế bắc-nam và hành lang kinh tế đông-tây; hình thành các vùng động lực ưu tiên trên cơ sở lựa chọn một số địa bàn có vị trí thuận lợi nhất, có cảng hàng không quốc tế và cảng biển trung chuyển, cửa ngõ quốc tế, có tiềm lực khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo, nhân lực chất lượng cao.
Từ tiêu chí này, dự thảo đề xuất hình thành tam giác động lực phía bắc là Hà Nội-Hải Phòng-Quảng Ninh, tứ giác động lực phía nam là Thành phố Hồ Chí Minh-Bình Dương-Đồng Nai-Bà Rịa-Vũng Tàu, tam giác Cần Thơ-An Giang-Kiên Giang và vùng động lực miền trung là khu vực ven biển Đà Nẵng-Quảng Ngãi. Dự thảo Quy hoạch cũng đưa ra các kịch bản phát triển kinh tế-xã hội của thời kỳ lập quy hoạch, cụ thể đến năm 2030, dân số nước ta khoảng 105 triệu người, đến năm 2050 tăng lên 115 triệu người; tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt khoảng 7%/năm giai đoạn 2021-2030 và 6,5-7,5%/năm giai đoạn 2031-2050.
Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người (thu nhập bình quân) theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD/người và tăng lên 27-32 nghìn USD/người vào năm 2050. Tỷ lệ dân số đô thị cũng tăng nhanh, đạt hơn 50% vào năm 2030 và khoảng 70-80% năm 2050. Nhấn mạnh hệ thống đô thị là cốt lõi của tăng trưởng kinh tế, TS Phó Đức Tùng, chuyên gia Ngân hàng Thế giới (WB) góp ý, cấu trúc hệ thống đô thị cần phát triển thành mạng lưới, có mối liên kết hệ thống gắn liền chiến lược phát triển kinh tế để trở thành đầu tàu về tăng trưởng thay vì chỉ là tập hợp các điểm đô thị rời rạc như hiện nay.
Điều này đòi hỏi quy hoạch và hạ tầng phải đi trước một bước, làm định hướng cho phát triển đô thị. Với quan điểm này, TS Phó Đức Tùng gợi ý, định hướng phát triển hai vùng đô thị trọng điểm gồm vùng đồng bằng sông Hồng với trục lõi là Hà Nội-Hải Phòng và vùng đô thị trọng điểm Nam Bộ với trục lõi Thành phố Hồ Chí Minh-Vũng Tàu, mở rộng hai cánh ra đông, nam Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long. Trong đó, mỗi vùng có một đô thị đặc biệt làm trung tâm với sức hút lớn và một cửa biển trọng yếu quốc tế.
Một góc khu đô thị Tây Hồ Tây, Hà Nội. (Ảnh DUY ĐĂNG) |
Vốn tư nhân chiếm tỷ trọng lớn
Để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế khoảng 7%/năm trong thời kỳ quy hoạch, Bộ Kế hoạch và Đầu tư dự kiến cơ cấu huy động vốn đầu tư giai đoạn 2021-2030 khoảng hơn 50 triệu tỷ đồng (khoảng 35% GDP). Trong đó, vốn huy động từ khu vực kinh tế nhà nước là hơn 10 triệu tỷ đồng, tương đương 20% tổng vốn đầu tư; vốn huy động từ khu vực tư nhân là hơn 33 triệu tỷ đồng, chiếm 66%; thu hút vốn đầu tư nước ngoài khoảng hơn 7 triệu tỷ đồng (hơn 270 tỷ USD), chiếm 14%.
So với giai đoạn 2011-2020, hiệu quả sử dụng vốn tăng lên, hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (hệ số ICOR) giảm xuống còn 4,9 so với mức khoảng 7,0. Trong cơ cấu huy động vốn, nguồn lực huy động từ khu vực kinh tế tư nhân chiếm tỷ trọng lớn nhất, lên đến 66% tổng vốn đầu tư, tương đương hơn 33 triệu tỷ đồng. TS Lê Anh Tú, Giám đốc dịch vụ tư vấn doanh nghiệp Công ty Tư vấn PwC Việt Nam cho rằng, để huy động được nguồn vốn tư nhân lớn như vậy, đòi hỏi phải có một số thay đổi quan trọng từ thể chế, chính sách, quy hoạch đến thực hiện và quản lý các dự án theo phương thức hợp tác công-tư (PPP).
Trong thực tế, mặc dù đã có đổi mới nhưng khuôn khổ pháp luật hiện tại cho PPP vẫn thiếu các quy định cụ thể và hướng dẫn kỹ thuật để phát triển và triển khai dự án. Số liệu của WB và Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) năm 2019-2020 cho thấy, Việt Nam đang tụt hậu so một số nước trong khu vực về năng lực thể chế, ảnh hưởng lớn đến sự quan tâm và khả năng tham gia của khu vực tư nhân vào các dự án PPP và cần có cơ chế, chính sách nâng cao năng lực thể chế thực hiện dự án, bao gồm năng lực thiết lập thể chế, lập kế hoạch, chuẩn bị, phân bổ rủi ro, mua sắm và thực hiện dự án.
“Phần lớn vốn tư nhân được thu hút và thực hiện ở cấp độ chính quyền địa phương - nơi năng lực còn hạn chế và mức độ tín nhiệm chưa cao để có thể huy động và thu hút các nguồn tài trợ thương mại. Vì vậy liên quan đến các giải pháp và nguồn lực, Quy hoạch cần tập trung vào việc tăng mức độ tín nhiệm của các chính quyền cấp tỉnh, thành phố”, TS Lê Anh Tú đề xuất.
Đánh giá cao dự thảo Quy hoạch thể hiện sự quan tâm nhiều hơn đến biến đổi môi trường, biến đổi khí hậu, hình thành các hành lang kinh tế, TS D. Leipziger, chuyên gia WB cho rằng trong thực tế, yếu tố bất định ngày càng tăng lên cả về địa chính trị và điều hành kinh tế, do đó Việt Nam cần cập nhật, bám sát thực tế và có lộ trình điều chỉnh Quy hoạch giữa kỳ, coi văn bản Quy hoạch là “tài liệu sống”.
Các dự án quy mô lớn cần được lựa chọn kỹ, đánh giá lại chất lượng đầu tư hiện tại trước khi tính tới dự án đầu tư mới để không gây lãng phí. Đây cũng là quan điểm của nhiều chuyên gia của WB. Giám đốc quốc gia WB Việt Nam, bà C.Turk nhấn mạnh: Quy hoạch tổng thể quốc gia không chỉ cần được xây dựng tốt mà còn phải có tính khả thi và hiệu quả. Điều này đặc biệt quan trọng do nguồn lực tài chính có hạn trong khi tham vọng thay đổi sự phát triển không gian của quốc gia đòi hỏi phải có những quyết định ưu tiên về nguồn vốn và lựa chọn đầu tư.
Để giải quyết bất cập phát sinh khi triển khai Quy hoạch, WB khuyến nghị cần bảo đảm các kế hoạch đầu tư trung hạn được liên kết chặt chẽ, ưu tiên và theo đúng trình tự hướng tới kết quả, nhằm cải thiện quy hoạch tổng thể phát triển không gian quốc gia và khu vực trong phạm vi dự báo đáng tin cậy về khả năng chi trả của ngân sách; đồng thời, cải thiện quy trình đầu tư công, từ lựa chọn dự án đến giải ngân vì đó là giải pháp quan trọng để đạt được các mục tiêu đề ra trong quy hoạch tổng thể.