Đồng bằng sông Cửu Long đối mặt nhiều thách thức về kinh tế, xã hội và môi trường trong phát triển

NDO - Ngày 1/8, tại Cần Thơ, Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) tổ chức Lễ Công bố Báo cáo Kinh tế Thường niên Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) năm 2022 (AMDER 2022).
0:00 / 0:00
0:00
Lãnh đạo VCCI Cần Thơ phát biểu tại lễ công bố báo cáo kinh tế thường niên vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
Lãnh đạo VCCI Cần Thơ phát biểu tại lễ công bố báo cáo kinh tế thường niên vùng Đồng bằng sông Cửu Long.

Báo cáo Thường niên 2022 là công trình nghiên cứu hợp tác bởi VCCI Cần Thơ và Trường Chính sách Công và Quản lý Fulbright (FSPPM) với sự tham gia các chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực.

Tham dự lễ công bố có các đồng chí Ủy viên Trung ương đảng: Nguyễn Thành Phong, Phó trưởng Ban Kinh tế Trung ương, Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn, lãnh đạo các tỉnh, thành phố vùng Đồng bằng sông Cửu Long, các nhà khoa học, các tổ chức quốc tế.

Đây là năm thứ hai Báo cáo Kinh tế Thường niên Đồng Bằng Sông Cửu Long được thực hiện và là báo cáo đầy đủ và duy nhất về một vùng kinh tế trên cả nước.

Báo cáo thường niên gồm các nội dung sau: Tổng quan về kinh tế thế giới và trong nước; cập nhật kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long và mục tiêu điểm sẽ tập trung vào một số chủ đề có tính chọn lọc, đặc biệt quan trọng đối với Đồng bằng sông Cửu Long.

Về kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long trong năm qua, kết quả nghiên cứu cho thấy, điểm sáng lớn nhất của Đồng bằng sông Cửu Long trong hai năm 2020-2021 là nông nghiệp. Bất chấp dịch bệnh trong năm 2021, khu vực nông nghiệp của Đồng bằng sông Cửu Long vẫn tăng trưởng mạnh (3,4%), cao hơn hẳn so với mặt bằng chung của cả nước. Xuất khẩu nông thủy sản của Vùng đóng vai trò then chốt trong việc duy trì thặng dư thương mại cho Việt Nam. Tuy nhiên, một mình ngành nông nghiệp không đủ sức vực dậy nền kinh tế Đồng bằng sông Cửu Long vì khu vực công nghiệp và dịch vụ chiếm tới hơn 70% GRDP của vùng đều tăng trưởng âm, ước tính lần lượt là -0,8% và -1,8%.

Điều đáng lưu ý là năng lực cạnh tranh nông nghiệp của Đồng bằng sông Cửu Long, trong giai đoạn 2015-2020, tốc độ tăng năng suất lao động nông nghiệp trung bình ở Đồng bằng sông Cửu Long rất cao, lên tới 9,03%/năm, gấp hơn 2 lần so với khu vực công nghiệp (4,39%) và dịch vụ (3,82%). Điều này cho thấy Đồng bằng sông Cửu Long vẫn còn nhiều tiềm năng chuyển đổi cơ cấu và tăng năng suất. Tất nhiên, việc hiện thực hóa tiềm năng này tùy thuộc vào chiến lược và chính sách phát triển đúng đắn.

Báo cáo chỉ ra Đồng bằng sông Cửu Long phải đối diện nhiều thách thức lớn nằm ở ba phương diện: kinh tế, xã hội và môi trường.

Tiến sĩ Vũ Thành Tự Anh, Trường Đại học Fulbright Việt Nam, đồng tác giả báo cáo cho biết, Đồng bằng sông Cửu Long được giao sứ mệnh đảm bảo an ninh lương thực quốc gia, chính sách kiên quyết giữ đất lúa đã giúp Việt Nam xóa đói và trở thành quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu, nhưng lại không giúp Việt Nam trở nên thịnh vượng. Nền nông nghiệp của Đồng bằng sông Cửu Long chậm hiện đại hóa, nền nông nghiệp vẫn dựa chủ yếu vào kinh tế nông hộ với diện tích đất canh tác nhỏ và manh mún, là rào cản quan trọng cho việc chuyển trọng tâm từ sản xuất nông nghiệp sang kinh tế nông nghiệp. Nguồn vốn đầu tư hạn chế.

Những thách thức này làm tốc độ tăng trưởng GRDP của Đồng bằng sông Cửu Long thấp, chỉ đạt 5,31%/năm trong giai đoạn 2016-2020, thấp nhất trong bốn vùng kinh tế trọng điểm. Hệ quả là Đồng bằng sông Cửu Long mặc dù giàu có về tài nguyên, phong phú về tiềm năng nhưng tiếp tục tụt hậu về mặt kinh tế.

Thách thức về phương diện xã hội là thiếu việc làm ở nông thôn. Tình trạng di cư, sự chênh lệch về mức sống và cơ hội việc làm dẫn đến luồng di cư từ Đồng bằng sông Cửu Long lên các đô thị và khu công nghiệp ở vùng Thành phố Hồ Chí Minh. Tình trạng nghèo, thu nhập bình quân đầu người của Đồng bằng sông Cửu Long trong năm 2019 là 3,9 triệu đồng/tháng, thấp hơn mức 4,2 triệu đồng/tháng của cả nước. Nguồn nhân lực, kỹ năng của lao động còn thấp.

Về phương diện môi trường, các công trình thủy điện thượng nguồn làm giảm đáng kể lượng phù sa và cát do bị các hồ chứa giữ lại. Hệ quả là gây ra sạt lở bờ sông và làm đất bạc màu, nước mặn từ biển tràn vào làm hơn một nửa diện tích tự nhiên bị nhiễm mặn.

Báo cáo tiếp tục phân tích và chỉ ra rằng trong nhiều năm qua, hạ tầng đường bộ là một điểm nghẽn cơ bản kìm hãm sự phát triển của vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Những yếu kém cố hữu về cơ sở hạ tầng giao thông của Đồng bằng sông Cửu Long cũng được bộc lộ qua hiện trạng cao tốc của Đồng bằng sông Cửu Long chỉ có 6,7% chiều dài đường cao tốc cả nước. Giao thông đường thủy nội địa đóng vai trò quan trọng ở Đồng bằng sông Cửu Long nhưng lại thiếu đầu tư trầm trọng với ngân sách đầu tư giảm từ 2-3% tổng ngân sách đầu tư giao thông trong giai đoạn 2011-2015 xuống chỉ còn 1,2% trong giai đoạn 2016-2020. Cho đến thời điểm này, Đồng bằng sông Cửu Long chưa có một cảng biển quốc tế thực thụ.

Trên cơ sở quy hoạch tích hợp vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã được Chính phủ phê duyệt, Báo cáo cũng đưa ra khuyến nghị để Đảng, Chính phủ, Quốc hội, các địa phương vùng Đồng bằng sông Cửu Long cần thực hiện đồng bộ các giải pháp khắc phục khó khăn, biến thách thức thành cơ hội, tháo gỡ điểm nghẽn về hạ tầng giao thông, chất lượng nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường… để Đồng bằng sông Cửu Long phát triển nhanh, bền vững. Các cấp, các ngành cần hành động quyết liệt để đạt được các mục tiêu, nhiệm vụ trong quy hoạch tích hợp. Nếu không nhiều năm nữa, các thách thức của vùng vẫn hiện hữu và Đồng bằng sông Cửu Long vẫn là vùng trũng trong phát triển kinh tế-xã hội.