Trong đó, nhà trường có vai trò quyết định vì ở đó quá trình giáo dục được thực hiện một cách hệ thống bởi các yếu tố xác định: mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục. Hệ thống đó được vận hành, phát triển bền vững nhờ động lực được tạo ra bởi tương tác hoạt động dạy và học. Nói theo chủ thể hoạt động thì đó là tương tác hoạt động giữa giáo viên và học sinh. Bản chất tương tác đó là vai trò quyết định của hoạt động dạy đối với hoạt động học và cũng là nhấn mạnh vai trò quyết định của giáo viên (GV) đối với chất lượng giáo dục (GD).
Mặc dù nội dung, hình thức, phương pháp lao động sư phạm của GV ngày nay đã có nhiều thay đổi cùng với sự phát triển của xã hội loài người nói chung, của khoa học kỹ thuật nói riêng nhưng vai trò của họ không thay đổi. Dạy là hoạt động biến kinh nghiệm, tri thức của loài người thành tri thức của học sinh. Học là hoạt động của học sinh có bản chất là hoạt động nhận thức. Dạy và học chỉ tạo ra một hệ động lực khi giữa chúng tạo ra sự tương tác. Ðộng lực càng lớn, hiệu quả giáo dục càng cao khi sự tương tác đó càng phong phú. Sự tương tác càng phong phú khi GV tạo được hoạt động nhận thức đáp lại của học sinh một cách tích cực, chủ động.
Trước đây, khi khoa học chưa phát triển, lượng và kênh thông tin khoa học hạn chế thì thế hệ trước truyền thụ tri thức, kinh nghiệm cho thế hệ sau chủ yếu bằng truyền khẩu hay thuyết trình, độc thoại. Hoạt động dạy chủ yếu là cung cấp thông tin, được học sinh đáp lại bằng ghi nhớ. GV trở thành người cung cấp tri thức chủ yếu nên người học phụ thuộc chủ yếu vào người dạy.
Tri thức khoa học của nhân loại tăng gấp đôi theo chu kỳ chưa đầy 10 năm ở thập kỷ 70 của thế kỷ trước, nay chỉ khoảng năm năm. Bối cảnh đó xuất hiện một nghịch lý là thời gian học trong nhà trường của học sinh là một số hữu hạn trong khi tri thức khoa học vừa đổi mới, vừa tăng đột biến là vô hạn. Giải quyết nghịch lý đó chỉ bằng cách mỗi người phải tự học suốt đời. Tự học suốt đời không thể có thầy dạy suốt đời. Giáo dục trong nhà trường phải thực hiện nguyên tắc biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo. Vậy GV có còn vai trò "không thầy đố mày làm nên?".
Ngày nay, hình thành ở học sinh năng lực tự học là mục tiêu cơ bản của quá trình dạy học. Ðể đạt mục tiêu đó, nhà trường phải đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp,... giáo dục. Nếu như trước đây nội dung hướng vào cung cấp một khối lượng kiến thức nhất định thì ngày nay hướng vào dạy cách học, phương pháp tư duy. Kiến thức khoa học có thể sẽ lạc hậu, nhưng cách học và phương pháp tư duy thì ít hoặc lâu bị lạc hậu. Dạy học hiện đại là dạy công cụ tìm kiếm kiến thức được hiểu theo nghĩa đó. Dạy cách học là hình thành kỹ năng thu thập, xử lý thông tin để phát hiện, giải quyết vấn đề. Công việc đó không ai khác ngoài GV và chỉ có GV mới đảm nhận được. Cho dù ngày nay lượng thông tin khoa học bùng nổ, cùng với nó là sự bùng nổ công nghệ máy tính, truyền thông học sinh có thể thu nhận kiến thức từ nhiều kênh, nhiều nguồn, mọi nơi, mọi lúc thì GV vẫn có vai trò quyết định. Cung cấp thông tin không còn là chức năng chính của hoạt động dạy, thay vào đó là tạo lập tình huống, nhiệm vụ, bài toán nhận thức được GV gia công sư phạm một cách công phu. Gia công sư phạm là một quá trình tuân thủ các quy luật tâm lý. Cho nên không công cụ nào làm thay GV được. Truyền kiến thức có sẵn cho học sinh ghi nhớ thì đơn giản hơn nhiều so với việc tổ chức HS thực hiện tìm tòi, khám phá, cùng với sự hỗ trợ các phương tiện như máy tính, ấn phẩm, các phương tiện kỹ thuật nghe nhìn khác. Việc đổi mới phương pháp giáo dục theo định hướng trên có tầm quan trọng quyết định chất lượng giáo dục. Ðiều này đã được khẳng định bằng cơ sở lý luận, thực tiễn và Luật Giáo dục, cùng với nhiều văn bản của các cấp quản lý nhà nước.
Thế nhưng sự chuyển biến không đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Có nhiều nguyên nhân của thực trạng đó, nhưng nguyên nhân chính vẫn là việc đổi mới phương pháp giáo dục của GV chưa được tổ chức đồng bộ. Ðể giáo viên đổi mới phương pháp cần nhiều giải pháp đồng bộ: đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ, nhất là quản lý hoạt động dạy bằng các chế tài trong đó quy định GV áp dụng các phương pháp dạy học hiện đại phù hợp với bối cảnh sư phạm đa dạng.
Phân tích trên để thấy dù thời đại nào thì câu tục ngữ "Không thầy đố mày làm nên" vẫn luôn luôn đúng. Tuy nhiên, đặc điểm lao động sư phạm của người giáo viên có những thay đổi theo xu hướng đổi mới giáo dục. Khi mục tiêu GD phổ thông là phát triển hệ thống năng lực, trong đó năng lực tự học, tự phát triển là cốt lõi thì GV không còn đóng vai trò chỉ là người truyền đạt tri thức mà phải chủ yếu là người tổ chức hoạt động tìm tòi tự lực chiếm lĩnh tri thức. Theo đó , GV phải tự học, tự phát triển nghề nghiệp thường xuyên mới đáp ứng được đổi mới giáo dục phổ thông. Khái niệm "thầy" ở đây gắn liền với khái niệm "dạy". Tri thức học sinh tiếp nhận được từ quá trình dạy học mới có hệ thống, toàn diện. Tri thức đó có tác dụng tạo cho học sinh khả năng khuyếch đại vốn hiểu biết ban đầu. GV vừa là người tổ chức HS khám phá kiến thức mới, vừa là tấm gương, là đối tượng để học sinh học tập vì học là một quá trình hoạt động tâm lý.
Khi công nghệ máy tính, truyền thông phát triển tạo ra thế hệ HS thời đại công nghệ muốn có thông tin chỉ ấn nút. Bấm nút là học bằng máy. Máy là đối tượng vô hồn khó có thể tạo ra tương tác tâm lý như học bằng thầy. Tạo ra môi trường có tương tác tâm lý không ai thay thế được người thầy. Chỉ khi có tương tác đó mới thực hiện được nguyên lý dạy người thông qua dạy chữ. Tạo được môi trường tương tác tâm lý đúng đắn thì GD mới có chất lượng cao. Nhờ tương tác đó mà GV có thể phát triển cảm xúc, thái độ, hành vi HS. Tương tác đó làm phát triển lòng yêu trẻ - một phẩm chất đặc trưng nhân cách người thầy giáo. Nhờ tương tác đó mà GV bộc lộ nhân cách với học sinh và biến nhân cách mẫu mực của mình thành nội dung GDHS. GV là "kỹ sư tâm hồn", là một chức năng đặc biệt quan trọng, là thuộc tính cần có của GV. Chỉ có GV qua mối tương tác trên mới có thể chẩn đoán tâm lý, nhu cầu, đặc điểm học sinh. Thấu hiểu thế giới bên trong của học sinh để nắm bắt được đặc điểm tâm lý, tính cách, hoàn cảnh, phong cách học tập, là thông tin cho phép GV điều khiển quá trình GD đạt hiệu quả mong muốn.
Phân tích một số chức năng cơ bản của GV để khẳng định rằng GV giữ vai trò quyết định chất lượng và hiệu quả GD. GV là nhà giáo dục. Họ dạy học sinh tri thức khoa học bằng chính nhân cách của họ. Khi GD đã là quốc sách hàng đầu thì xây dựng, phát triển đội ngũ GV là quốc sách của quốc sách đó.
GS, TS ÐINH QUANG BÁO
(Trường đại học Sư phạm Hà Nội)
Cả nước có hơn 1,2 triệu giáo viên, giảng viên; trong đó, gần 1,1 triệu giáo viên mầm non và phổ thông, hơn 87 nghìn giảng viên đại học, cao đẳng, còn lại là giáo viên trung cấp chuyên nghiệp và giáo dục thường xuyên...
Cán bộ quản lý có trình độ đào tạo đạt chuẩn trở lên đạt 98,3%, trong đó, trên chuẩn đạt 83,9%. Giáo viên có trình độ đào tạo đạt chuẩn trở lên đạt 96,47%, trong đó trên chuẩn đạt 51,4%
Công tác phát triển số lượng và nâng cao chất lượng đội ngũ tiếp tục được quan tâm. Ðến nay, cả nước đã có 94,4% số cán bộ quản lý và 55% số giáo viên mầm non đứng lớp; 29,3% số nhân viên được biên chế. Có 69,3% số cán bộ quản lý và giáo viên được trả lương theo bảng lương, nâng lương theo định kỳ, trong đó có 135.744 giáo viên hợp đồng làm việc, 48.744 giáo viên hợp đồng lao động.
Bộ GD và ÐT
Năm học 2013-2014, tiếp tục nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý và nhân viên ngành giáo dục đáp ứng yêu cầu thực tiễn của các địa phương. Ðánh giá giáo viên và cán bộ quản lý theo chuẩn bảo đảm khách quan, công bằng qua kết quả tự bồi dưỡng thường xuyên và đóng góp thực tế với nhà trường được đồng nghiệp, phụ huynh và học sinh ghi nhận.
Thực hiện đầy đủ và kịp thời các chính sách đối với nhà giáo; nhất là giáo viên mầm non, giáo viên đang công tác tại vùng miền núi và vùng đặc biệt khó khăn; ban hành các cơ chế, chính sách nhằm tạo động lực phấn đấu cho nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục đang công tác và thu hút người giỏi về quản lý, giảng dạy tại địa phương.
Phương hướng, nhiệm vụ trọng tâm năm học 2013-2014