Ở Việt Nam hiện nay, cơ chế tài chính trong hoạt động KH và CN đang là chủ đề của những cuộc tranh luận chưa phân thắng bại giữa các nhà quản lý và các nhà khoa học. Các nhà quản lý đánh giá đầu tư cho KH và CN ở Việt Nam mang lại hiệu quả không cao; còn các nhà khoa học thì khẳng định rằng, cơ chế quản lý tài chính hiện nay đang làm lãng phí thời gian, thậm chí làm phương hại đến lao động sáng tạo của giới khoa học và biến các nhà khoa học thành những người chỉ lo chạy chứng từ.
Trong các cuộc tranh luận, cả hai bên đều khẳng định, đây là vấn đề ai cũng thấy, ai cũng biết, nhưng chưa bên nào đưa ra được lời giải thỏa đáng. Các nhà quản lý cho rằng, cần phải quản lý chặt đồng vốn do Nhà nước bỏ ra; còn các nhà khoa học cho rằng, họ cần có hành lang thỏa đáng để quyết định việc chi tiêu trong hoạt động của mình.
Ðổi mới nhận thức về hoạt động KH và CN
Theo chúng tôi, hoạt động KH và CN là một hoạt động đặc thù, lấy sự sáng tạo làm mục đích chủ đạo. Vì thế, phải có cơ chế quản lý tài chính riêng cho hoạt động KH và CN phù hợp đặc thù đó. Ở nhiều quốc gia, người ta đang có xu thế hợp nhất ba khái niệm: Khoa học (Science), Công nghệ (Technology) và Ðổi mới (Innovation) trong một ngành và thực hiện quản lý thống nhất thông qua một bộ trong chính phủ.
Cần có sự thay đổi cơ bản trong quan niệm về sản phẩm KH và CN. Do đặc thù của hoạt động KH và CN lấy mục đích sáng tạo là chính, nên sản phẩm của hoạt động KH và CN gồm có ba loại:
Thứ nhất là, các công bố khoa học dưới dạng các bài báo gốc trình bày các kết quả mới được công bố trên các tạp chí uy tín có sự phản biện của các chuyên gia trong lĩnh vực chuyên môn;
Thứ hai là, các bằng phát minh sáng chế được bảo hộ trong và ngoài nước bởi các cơ quan chuyên nghiệp;
Thứ ba là, những nghiên cứu ứng dụng, thực chất là việc thử nghiệm các kết quả có sẵn ở điều kiện cụ thể nào đó, nhất là điều kiện trong nước.
Sự đổi mới về nhận thức sẽ dẫn đến những đổi mới trong nguyên tắc quản lý và đầu tư cho hoạt động KH và CN.
Một là, tiến hành đầu tư tập trung. Với một quốc gia còn nghèo như Việt Nam, có thể nêu một nguyên tắc chung là "có nhiều thì làm nhiều có ít thì làm ít", nhưng phải tập trung, nhất quyết không chia đều, trải rộng. Sự đầu tư theo nguyên tắc bình quân chỉ đem lại sự yên ổn mang tính chính trị, nhưng xét về hiệu quả lại là nguyên nhân gây lãng phí. Quán triệt được nguyên tắc tập trung, tức là chỗ nào cần thiết, nơi nào đã làm tốt thì được tập trung đầu tư nhiều, mạnh dạn bỏ qua chỗ yếu. Ðiều này cần có sự nhạy bén và quyết đoán của người làm công tác quản lý và lãnh đạo.
Thứ hai là, đầu tư tới hạn cho hoạt động KH và CN. Sản phẩm khoa học khó cân đo đong đếm bằng các đại lượng đo lường cụ thể, vì thế khó xác định mức tới hạn để mà đầu tư. Không thể đầu tư cho ngành giao thông làm một nửa hay hai phần ba cây cầu rồi để đó, nhưng trong nghiên cứu khoa học thì hiện tượng giảm, rút kinh phí đề tài so với đề xuất là phổ biến, không cần biết có hoàn thành hay không?
Ðổi mới nguyên tắc và cơ chế đầu tư tài chính cho KH và CN
Theo khía cạnh tài chính thì hoạt động KH và CN cần có sự phân định rõ giữa hoạt động nghiên cứu khoa học và hoạt động sáng tạo công nghệ. Hoạt động nghiên cứu khoa học trong mọi thời đại, ở mọi quốc gia đều là hình thức tiêu tiền, dù đó là nguồn tiền nào - phần lớn là nguồn tài chính công hoặc một phần tài chính do các công ty/hãng bỏ ra để đầu tư cho nghiên cứu dài hạn. Khó có thể đưa ra thí dụ về việc nghiên cứu khoa học làm ra tiền.
Như vậy, cần có cơ chế đặc thù cho hoạt động nghiên cứu khoa học và thước đo hiệu quả của hoạt động này chỉ là số lượng các công trình công bố trên các tạp chí chuyên ngành. Nguyên tắc cơ bản để hoạch định chính sách cho hoạt động loại này là "kế hoạch tuân theo khả năng tài chính". Vì vậy, cơ chế tài chính chủ yếu là cơ chế cấp phát và biện pháp quản lý chủ yếu tập trung cho quản lý việc chi ngân sách. Và nếu đã là cấp phát thì người dùng tiền phải tuân thủ mọi quy định - dù là ngặt nghèo của cơ quan quản lý.
Hoạt động sáng tạo công nghệ không những chỉ tạo ra công nghệ, có khả năng đăng ký phát minh sáng chế, mà còn có thể mua bán trên thị trường công nghệ và có thể tạo ra nguồn thu tài chính. Chính sách tài chính đối với loại hoạt động này cần có sự minh bạch giữa thu và chi.
Ngoài ra, cũng cần có sự rõ ràng trong nguyên tắc phân chia các khoản thu trong hoạt động chuyển giao, mua bán công nghệ. Ở các quốc gia tiên tiến thì phần nghiên cứu sáng tạo công nghệ sẽ được cấp hay ứng vốn, phần đăng ký bảo hộ phát minh sáng chế thường phải vận động các doanh nghiệp tham gia góp vốn sau khi ký văn bản thỏa thuận với tác giả, cơ quan chủ trì. Trong trường hợp công nghệ được thương mại hóa thì tác giả, cơ quan chủ trì và doanh nghiệp phải tuân thủ các thỏa thuận trước đây về phân chia quyền lợi theo pháp luật.
Tuy nhiên, giữa nghiên cứu khoa học và sáng tạo công nghệ có mối liên hệ "nhân quả" khăng khít với nhau, nhưng trong quản lý, đặc biệt là quản lý tài chính thì sự tách bạch giữa "nhân" và "quả" lại là cần thiết. Không thể coi việc nghiên cứu tìm kiếm loài phong lan mới ở Cúc Phương có cùng một tính chất và mục đích như hoàn thiện công nghệ chế tạo máy ảnh kỹ thuật số được, đó là hai việc khác nhau.
Loại hình hoạt động KH và CN thứ ba mang nặng tính ứng dụng là hình thức vườn ươm doanh nghiệp đang được thực hiện ở nhiều quốc gia. Ðây là nơi các công ty khởi nghiệp được tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hình thành và phát triển. Những cố gắng theo hướng này ở nước ta cũng đang trong thời kỳ khởi động, không tránh khỏi những vướng mắc, khó khăn về ý tưởng sản phẩm, vốn đầu tư và chính sách hỗ trợ. Khi nào thì công ty khởi nghiệp được hỗ trợ tài chính từ nguồn tài chính công? Ðối với lĩnh vực KH và CN tính ưu việt của sản phẩm hay công nghệ do công ty khởi nghiệp tạo ra so với sản phẩm đang có sẽ là tiêu chí quyết định sự cần thiết được hỗ trợ hay không.
Phương thức cấp phát, thanh toán cũng cần có sự đổi mới. Cần có phân bổ cụ thể, quy định rõ ràng về hạng mục ưu tiên tập trung đầu tư nghiên cứu cơ bản, nâng cao trình độ; hạng mục cần tập trung dứt điểm để hoàn thành quy trình, phát minh sáng chế; hạng mục cần có sản phẩm cụ thể.
Cơ chế, chính sách là công cụ quản lý của Nhà nước, công cụ tốt và dùng đúng thì sẽ tạo ra những sản phẩm tốt. Hiện nay, khi nước ta mở cửa hội nhập, việc chọn lựa cách thức làm đúng phụ thuộc nhiều vào yếu tố chủ quan của đội ngũ cán bộ quản lý.
Tuy nhiên, khi tiến hành chọn lựa, chúng ta còn thiếu phương pháp khoa học, chưa thật sự khách quan và thiếu tính chuyên nghiệp, vì thế cơ chế, chính sách thiếu đồng bộ, thiếu tính khả thi. Khắc phục được những tồn tại trên thì chúng ta sẽ tìm ra được cách làm đúng và đồng tiền của nhân dân sẽ được tiêu một cách có hiệu quả (kể cả trong việc làm thỏa mãn sự tò mò khám phá của những người làm nghiên cứu khoa học).