Thủ môn Xêp Mai-ơ (Ðức)
Gã khổng lồ huyền thoại trong khung thành này là một trong những thủ môn hay nhất mọi thời đại, bên cạnh Ði-nô Dốp (I-ta-li-a), Lep Y-a-xin (Liên Xô cũ), và Go-đơn Bank (Anh). Trong khoảng thời gian có Mai-ơ bắt chính, đội tuyển CHLB Ðức đoạt chức vô địch châu Âu 1972 (á quân 1976) và giành Cúp vàng thế giới 1974.
Hậu vệ trái Gia-xin-tô Pha-xê-ti (I-ta-li-a)
Ông là con người tiêu biểu nhất của trường phái phòng ngự, và là học trò xuất sắc của HLV H. Hê-rê-ra ở Inter.
Trung vệ Ða-ni-en Pa-sa-rê-la (Ác-hen-ti-na)
HLV đội tuyển tango tại Giải vô địch bóng đá thế giới 1998 từng có một giải đấu để đời 20 năm trước đó. Trong vai trò thủ quân, Pa-sa-rê-la dẫn dắt hàng phòng ngự một cách hoàn hảo, góp công lớn vào chức vô địch của đoàn quân HLV Mê-nô-ti. Ông là hình mẫu đầu tiên cho lứa hậu vệ đội tuyển Ác-hen-ti-na ngày nay, bởi lối đá khôn ngoan, lăn xả.
Trung vệ kiêm libero Bếch-ken-bau-ơ (Ðức)
Kiểu chơi phòng ngự của "hoàng đế" thanh thoát mà vẫn tốc độ. Ngoài ra, Bếch-ken-bau-ơ nổi tiếng với khả năng dẫn dắt và những đường chuyền dài rất chuẩn xác. Cùng với CHLB Ðức, ông giành được HCV Euro 1972, Giải vô địch bóng đá thế giới 1974, HCB Giải vô địch bóng đá thế giới 1966, Euro 1976, HCÐ Giải vô địch bóng đá thế giới 1970.
Hậu vệ phải Ca-phu (Bra-xin)
Ðây là cầu thủ chính thức duy nhất góp mặt trong đội hình tiêu biểu mới giải nghệ. Ngoài việc được dự và trở thành trụ cột của Bra-xin trong bốn kỳ Giải vô địch bóng đá thế giới gần đây với hai chức vô địch năm 1994 và 2002, Ca-phu còn được đánh giá là hậu vệ phải tốt nhất thế giới.
Tiền vệ tổ chức Bôp-bi Chan-tơn (Anh)
"Bộ não" của đội tuyển Anh vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1966. Ông cũng đoạt Quả bóng vàng châu Âu trong năm này.
Tiền vệ tấn công Ma-ra-đô-na (Ác-hen-ti-na)
Một mình cầu thủ của Barca và Napoli dẫn dắt đội tuyển Ác-hen-ti-na đến ngôi vô địch Giải vô địch bóng đá thế giới 1986. Ma-ra-đô-na không phải là chuyên gia sưu tập các danh hiệu, mà ông hấp dẫn người hâm mộ thế giới bằng thứ kỹ thuật siêu đẳng.
Tiền vệ phải Ga-rin-cha (Bra-xin)
Tận dụng đôi chân bị tật (chân thấp chân cao), Ga-rin-cha "phù thủy" khiến các đối thủ phải đau đầu bằng lối đi bóng kỳ quái bên cánh phải. Khi Pê-lê sớm bị chấn thương nặng ở Giải vô địch bóng đá thế giới 1962, chính Ga-rin-cha nhận trách nhiệm "đầu tàu" giúp đội tuyển vàng xanh bảo vệ thành công ngôi vô địch.
Tiền vệ trái Et-ga-đô Ghi-gia (U-ru-guay)
Cựu cầu thủ của Rô-ma và Mi-lan có lối đi bóng độc đáo, và đặc biệt là cú sút "sát thủ". Ở trận đấu quyết định với Bra-xin tại Giải vô địch bóng đá thế giới 1950, Ghi-gia là tác giả của bàn thắng ấn định tỷ số 2-1 cho U-ru-guay bằng pha đưa bóng qua nách Ba-bô-sa.
Tiền đạo Muy-lơ (Ðức)
Cầu thủ có biệt danh Der Bomber (cỗ máy dội bom) là cầu thủ ghi nhiều bàn thắng thứ hai trong lịch sử Giải vô địch bóng đá thế giới (14 bàn, qua hai kỳ tham dự, thua Rô-nan-đô của Bra-xin một bàn). Muy-lơ cũng là người ghi bàn quyết định trong trận chung kết Giải vô địch bóng đá thế giới 1974, CHLB Ðức thắng Hà Lan 2-1. Ðó là pha dứt điểm hội tụ đủ các phẩm chất: tốc độ, nhạy bén và tính bất ngờ.
Tiền đạo Pê-lê (Bra-xin)
Pê-lê là cỗ máy ghi bàn không biết mệt (1.284 bàn, nhiều nhất thế giới). Ngoài ra, ông còn tạo được hàng trăm cơ hội ăn bàn cho đồng đội trong suốt sự nghiệp của mình. Kỹ thuật đảo chân của Pê-lê cũng thuộc loại độc nhất vô nhị.
HLV Vich-to-ri-ô Pô-dô (I-ta-li-a)
Ông là nhà cầm quân duy nhất hai lần đoạt chức vô địch bóng đá thế giới (1934, 1938 cùng với I-ta-li-a).