Cứ vào dịp rằm tháng 10 theo cách tính âm lịch hằng năm của người Khmer Nam Bộ, những phum, sóc của đồng bào Khmer ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long lại rộn rịp vào mùa Oóc Om Bóc - lễ cúng trăng được chờ đợi nhất trong năm. Theo quan niệm của đồng bào Khmer Nam Bộ, mặt trăng là vị thần cai quản mùa màng. Sau mỗi vụ mùa sản xuất, cần làm lễ cúng trăng để tạ ơn một năm mưa thuận gió hòa, thu hoạch tốt, nhà nhà trong phum, sóc ấm no, hạnh phúc. Ông Chau Ôl, một nhà nghiên cứu văn hóa Khmer giải thích: Trong tiếng Khmer, “Oóc” nghĩa là đút, nuốt hay đút cho ăn; còn “Om Bóc” là cốm dẹp. Lễ hội Oóc Om Bóc là lễ hội “Đút cốm dẹp”, hay lễ cúng trăng. Với đồng bào Khmer, cốm dẹp là loại lễ vật quan trọng nhất, không thể thiếu khi dâng cúng lên thần mặt trăng bên cạnh các loại hoa quả, đặc sản khác do chính người nông dân Khmer làm ra. Khi vầng trăng non trong tháng vừa xuất hiện, từng tốp nam thanh, nữ tú trong phum, sóc thức dậy từ giữa đêm khuya để giã cốm dẹp. Những âm thanh hối hả, nhịp nhàng của nhịp giã chày đôi càng làm cho mùa lễ hội đến nhanh hơn, ai nấy đều nức lòng mong đợi.
Năm nay, lễ cúng trăng được Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Sóc Trăng tổ chức vào tối 1-11 (ngày 13-9 âm lịch) tại chùa Kh’leang, phường 6, TP Sóc Trăng. Theo âm lịch Việt Nam, năm nay nhuận hai tháng sáu. Nhưng tính theo lịch trăng của người Khmer, bây giờ đã là tháng 10 âm lịch, đúng thời điểm cúng trăng, đưa nước. Tại lễ cúng trăng, các nghệ nhân Khmer tái hiện lại hoạt động giã cốm dẹp theo cách thủ công truyền thống. Từng cặp đôi nam - nữ đứng đối diện nhau nhịp nhàng vung chày, đâm giã những hạt nếp giòn vừa rang trên lửa đỏ, trong nền nhạc ngũ âm. Sau khi đĩa cốm dẹp được dọn lên bàn lễ vật, cũng là lúc mọi người tập trung đông đủ tại sân chùa. Các vị sư bắt đầu đọc kinh cầu nguyện, rồi lần lượt từ trẻ nhỏ cho đến thanh niên khấn vái, nguyện ước những điều tốt lành cho cuộc sống, trước khi được các sư sãi, à-cha đút cho miếng cốm dẹp còn nồng thơm hương nếp mới.
Kết thúc lễ cúng trăng, dòng người di chuyển đến bờ sông Maspero (sông Nguyệt) để dự hội thi thả đèn nước. Dòng sông Maspero chảy qua lòng TP Sóc Trăng lung linh muôn ánh đèn mầu trong đêm, với đủ các mô hình đèn như: Đèn ghe Cà Hâu, đèn mang hình chánh điện ngôi chùa Khmer thu nhỏ thả bồng bềnh trên sóng nước. Hàng chục chiếc đèn nước di chuyển trên sông, trong nền nhạc ngũ âm truyền thống háo hức, rộn ràng, kéo những dòng người đến đông hơn, chật kín hai bên bờ sông. Rồi những chương trình nghệ thuật dân tộc, lễ hội đường phố như: Múa nộm, múa Rô Băm, sân khấu Dù Kê… vô cùng sôi động, cùng màn diễu hành qua nhiều tuyến đường trung tâm thành phố. Từng dòng người nối đuôi nhau thưởng thức các chương trình nghệ thuật, chật cứng từ công viên 30/4 tới quảng trường Bạch Đằng. Trong ngày hội diễn ra nhiều hoạt động văn hóa, nghệ thuật đặc sắc khác, mang đậm nét bản sắc Khmer Nam Bộ.
Hoạt động được người dân mong chờ nhất trong lễ hội Oóc Om Bóc là đua ghe Ngo. Năm nay, được sự chấp thuận của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, tỉnh Sóc Trăng đã tổ chức Festival đua ghe Ngo tỉnh Sóc Trăng lần thứ ba - năm 2017 khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Festival đã thu hút hơn 5.000 vận động viên của 62 đội đua cả nam và nữ của năm tỉnh: Cà Mau, Bạc Liêu, Hậu Giang, Kiên Giang cùng chủ nhà Sóc Trăng tham gia tranh tài. Bất chấp cái nắng cháy da của vùng đất phương nam, hàng trăm nghìn người dân đã tập trung về hai bên bờ sông Maspero, nơi diễn ra các cuộc tranh của giải đua ghe Ngo. Dọc theo gần 2km từ cầu Maspero đến điểm xuất phát, chỗ nào cũng kín người. Nổi bật trong dòng người đông đúc, là những nhà sư của các chùa Khmer. Còn dưới bến sông, hơn 5.000 vận động viên trong trang phục thi đấu đủ mầu sắc cùng nhau đua tranh, tạo nên một bức tranh ngày hội thể thao sông nước tuyệt đẹp, như một bản phối của những gam mầu nổi bật trên mặt nước.
Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Sóc Trăng Trần Minh Lý cho biết, điều đặc biệt ở môn đua ghe Ngo truyền thống là tinh thần thể thao cao thượng và đoàn kết. Các đội đua không phải vì thắng - thua hay giá trị giải thưởng mà vì ý thức giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống quý báu của dân tộc. Mỗi đội ghe Ngo muốn tham gia tranh tài phải có ít nhất 80 người, bao gồm cả huấn luyện viên, hậu cần, vận động viên dự bị, nhưng chỉ có khoảng từ 50 đến 60 người trực tiếp lên ghe thi đấu. 80 người phải tham gia tập luyện ròng rã một, hai tháng trời trước khi giải đua diễn ra.
Ấn tượng với cuộc đua sông nước của đồng bào Khmer Nam Bộ, ông An-đriu, một khách du lịch và cũng là một nhà nhiếp ảnh người I-ta-li-a đã say mê chụp lại những khoảnh khắc trong Festival đua ghe Ngo năm nay. Ông An-đriu cho biết, cuộc đua lôi cuốn ông khi những chiếc ghe đua có hình dáng vô cùng đa dạng, lạ mắt vun vút lao đi trên mặt nước, với hàng chục tay chèo. Đây là một lễ hội thể thao thật sự hấp dẫn, với những phương tiện đua vô cùng độc đáo mà những nơi khác không có được.
Đối với đồng bào Khmer Nam Bộ, đua ghe Ngo mới là môn thể thao “vua”, và được người dân háo hức chờ đợi hằng năm. Chiếc ghe Ngo tham gia cuộc đua không có kích thước nhất định, mà tùy thuộc vào nhân lực và tài lực của ngôi chùa. Mỗi chiếc ghe Ngo thường rất dài, ngắn nhất cũng 25 m, rộng khoảng 1 m. Nhưng cũng có đội đem chiếc ghe Ngo dài đến 29 m, hay 31 m đi thi đấu. Chiếc ghe dài hơn cũng đồng nghĩa số lượng vận động viên ngồi trên ghe thi đấu nhiều hơn, nhưng yếu tố quyết định chiến thắng chính là kỹ thuật, chiến thuật.
Đối với đồng bào Khmer Nam Bộ, Lễ hội Oóc Om Bóc truyền thống là di sản văn hóa đặc biệt. Hiện nay, cùng với năm tháng và sự giao lưu văn hóa trong cuộc sống của cộng đồng các dân tộc vùng đồng bằng sông Cửu Long, lễ hội đã trở thành sự kiện văn hóa, thể thao chung của ba dân tộc Kinh, Hoa, Khmer sống trên địa bàn tỉnh Sóc Trăng.
Biểu diễn nghệ thuật trong Lễ hội Oóc Om Bóc - đua ghe Ngo vừa diễn ra tại tỉnh Sóc Trăng.