Đô thị hóa ở đồng bằng sông Hồng

Đô thị hóa ở Hưng Yên.
Đô thị hóa ở Hưng Yên.

Nước ta có gần ba phần tư diện tích là núi non và đất dốc, chỉ có hai đồng bằng sản xuất lúa gạo chính, phần để bảo đảm lương thực trong nước, phần để xuất khẩu.

Giữa hai đồng bằng có những nét khác biệt rất lớn: đồng bằng hạ lưu sông Mê Công quen gọi là đồng bằng sông Cửu Long có diện tích đất phèn rất lớn, có vùng trũng Tháp Mười mùa nước bị ngập sâu tới 3 - 4 m, mới được khai thác cách đây ba, bốn trăm năm, dân cư còn tương đối thưa (mật độ dân số cao nhất là ở tỉnh Vĩnh Long đạt 686 người/km2). Còn đồng bằng Bắc Bộ hay đồng bằng sông Hồng thì đã được khai thác cách đây hàng nghìn năm. Khi An Dương Vương đóng đô ở Cổ Loa cách đây 2.200 năm thì chắc chắn đã có cư dân trồng lúa nước ở đồng bằng Bắc Bộ. Qua hàng nghìn năm canh tác, toàn bộ đất đai đồng bằng đã trở thành đất trồng lúa nước, không còn đất phèn, thậm chí các vùng đất trũng chỉ trồng một vụ lúa ở Hà Nam trước kia thì sau này cũng đã được cải tạo để trở thành ruộng hai mùa chắc ăn. Ngoài ra, một mạng dày đặc hệ thống tưới nước và tiêu úng đã được chính quyền cách mạng xây dựng từ sau ngày hòa bình lập lại.

Khác với đồng bằng sông Cửu Long, vấn đề rất lớn ở đồng bằng Bắc Bộ là mật độ dân số quá cao. Cách đây 70 năm, trong sách Người nông dân châu thổ Bắc Kỳ (bản dịch Nxb Trẻ 2001), nhà địa lý Pháp Pierre Gourou đã ngạc nhiên về mật độ dân số ở đây đã ngang với mật độ dân số của vùng công nghiệp sông Ranh, mặc dù khi ấy mật độ dân số mới có 430 người/km2 .

Ông càng ngạc nhiên khi thấy có làng thuần nông như Ngô Xá ở Thư Trì (Thái Bình) mật độ dân số lên tới 1.580 người/km2, làng lớn nhất là Kiên Lao nay là Xuân Hồng ở Xuân Trường (Nam Ðịnh) có 11.428 người trên diện tích 6,6 km2, mật độ 1.758 người/km2; thậm chí riêng làng Hành Thiện thuộc xã đó bấy giờ đã có tới 7.603 dân trên diện tích 1,96 km2 , mật độ lên tới 4.000. Cũng trong sách trên (trang 189) ông dự kiến đến năm 2001 dân số đồng bằng Bắc Bộ sẽ lên tới 13 triệu. Trên thực tế, tập bản đồ hành chính Việt Nam xuất bản năm 2001 cho ta các số liệu:

Tên tỉnh Diện tích km2 Dân số Mật độ người/km2
Bắc Ninh 803,90 942.900 1.173
Hà Nam 849,50 782.800 933
Hà Nội 921 2.684.800 2.915
Hà Tây 2.191,60 2.391.600 1.091
Hải Dương 1.648,40 1.651.300 1.002
Hải Phòng 1.519,20 1.676.500 1.104
Hưng Yên 923,10 1.071.300 1.161
Nam Định 1.637,40 1.891.800 1.155
Ninh Bình 1.582,00 884.900 640
Thái Bình 1.541,90 1.541.900 1.160
Vĩnh Phúc 1.371,40 1.094.200 798
Tổng cộng 14.989,40 16.260.000 1.084

Nếu trừ số di dân cơ giới từ các vùng khác đến các thành phố và Thủ đô thì dự đoán của Gourou là khá chính xác: trong 70 năm dân số và mật độ đã tăng gấp 2,5 - 2,6 lần trong khi diện tích châu thổ không những không tăng mà lại giảm đi. Về đời sống của người nông dân châu thổ, Gourou viết: "Có thể coi như chắc chắn là người nông dân sống ở giới hạn của đói kém và nghèo khổ".

Ðiều đó cũng giải thích tại sao do chính sách phá lúa trồng đay và vơ vét lương thực phục vụ chiến tranh của phát-xít Nhật, hơn hai triệu dân ở Thái Bình, Nam Ðịnh đã chết đói năm Ất Dậu 1945. Ngày nay, nhờ khoán sản phẩm trong nông nghiệp và tăng năng suất lúa từ 1,5 tấn/ha lên 5-6 tấn/ha, vấn đề lương thực đã được giải quyết phần nào, nhưng chắc chắn đói kém vẫn còn và vấn đề lớn nhất là vấn đề dân số cao, rất khó giải quyết. Trong lời giới thiệu bản dịch cuốn sách, GS Ðào Thế Tuân viết: "Vấn đề dư thừa lao động mà Gourou lo lắng hơn 70 năm trước, ngày nay càng trở thành nghiêm trọng và là một thách thức cho sự phát triển tương lai của đồng bằng Bắc Bộ".

Trước tình hình đó, nhà địa lý Lê Bá Thảo rất tán thành chủ trương trước đây xây dựng các cụm công nghiệp trên các khu đất cao ở Việt Trì, Thái Nguyên, Bắc Giang và tiếp tục đề xuất đưa các khu công nghiệp lên các vùng đất cao bao quanh đồng bằng.

Gần đây, Chính phủ chủ trương xây dựng khu công nghệ cao không phải ở Hà Nội mà ở vùng đất cao Hòa Lạc là rất sáng suốt. Vĩnh Phúc là một tỉnh có diện tích lớn, mật độ dân số còn tương đối thấp, chủ trương san bằng các đồi thấp và lấy các vùng đất xấu để xây dựng các khu công nghiệp là đúng. Thế nhưng, dường như việc mất một diện tích lớn đất màu mỡ ở đồng bằng Bắc Bộ để xây dựng các đô thị, các khu công nghiệp và đường giao thông là một xu thế khó cưỡng lại được, vì các nhà đầu tư phải chọn những mặt bằng thuận lợi nhất để xây dựng xí nghiệp.

Hưng Yên là một tỉnh nhỏ, có mật độ dân số rất cao đã chuyển 3% đất nông nghiệp 1.600 - 1.700 ha làm khu công nghiệp, do đó ngân sách đã tăng từ 60 tỷ (1997) lên 910 tỷ (2004) (báo Nhân Dân 10-5-2005). Bắc Ninh là tỉnh nhỏ nhất ở châu thổ đã lấy vùng đất bạc màu của Quế Dương cũ ở phía bắc đường 18 để xây dựng khu công nghiệp, không tiếc lắm, nhưng tiếc hơn khi thấy khu đô thị mới Tiên Sơn mọc trên vùng đất ruộng phì nhiêu và rất tiếc hơn nữa khi thấy các lò gạch và nhất là nhà máy Terazô bóc đất phù sa màu mỡ của cánh đồng giữa Keo và Dâu để làm gạch.

Những việc làm nói trên tất nhiên đem lại nguồn thu ngân sách cho các cấp chính quyền, tạo thêm việc làm cho một số nông dân, song các chủ trương đó làm giảm diện tích đất sản xuất lương thực mà không giảm được mật độ dân số quá cao của đồng bằng, xa hơn nữa nó có thể làm giảm sự an toàn lương thực, khi mà dân số tiếp tục tăng, diện tích đất trồng lúa tiếp tục giảm. Có người nói: Khi đời sống lên, người ta chủ yếu ăn thức ăn chứ có ăn nhiều cơm đâu mà lo (!). Ðó là ở thành thị, còn ở vùng nông thôn chỉ cách Hà Nội hơn 30 km, dân chủ yếu ăn cơm gạo cứng với rau muống và tương cà, cho nên cơm vẫn là chủ lực. Do vậy, đô thị hóa và công nghiệp hóa nông thôn kiểu nói trên không giải quyết được việc nâng cao đời sống của nông dân. Chính những nghề truyền thống của các làng nghề đã phần nào tận dụng được lao động dư thừa sau các vụ mùa.

Hiện nay, cũng có làng nghề phát triển thịnh vượng như dệt lụa Vạn Phúc, gốm Bát Tràng, đồng Ðại Bái, gỗ Ðồng Kị, v.v... song cũng có nghề bị mai một như tranh Ðông Hồ, thay vào đó nghề làm vàng mã lại phát triển. Nông thôn đã được đô thị hóa và công nghiệp hóa 100% như làng giấy Phong Khê ở Bắc Ninh thì cả nước và không khí bị ô nhiễm nặng, ảnh hưởng sức khỏe của nhân dân, là điển hình của sự phát triển không bền vững.

Còn hiện đại hóa nông nghiệp theo đúng nghĩa của nó có lẽ còn là viễn tưởng khá xa. Theo đúng nội dung tôi hiểu thì phải thay thế lao động chân tay của người nông dân bằng lao động cơ giới: máy làm đất thay cho cày bừa, máy gieo hạt, máy cấy, máy làm cỏ, phun thuốc trừ sâu, máy gặt đập, mấy sấy thay thế hoàn toàn lao động thủ công nặng nhọc của người nông dân. Về phương diện này, nhiều nơi đã có máy cày nhỏ thay trâu cày và máy xay xát thay cho cối xay và cối giã gạo.

Muốn hiện đại hóa nông nghiệp thì người nông dân phải tích lũy được vốn để mua máy móc, nhiên liệu, phải tập trung ruộng thành những thửa lớn, v.v... và một công nhân nông nghiệp sẽ thay thế ít nhất mười lao động thủ công, chín người thừa ra sẽ đi đâu và làm gì?

Rút cuộc, nếu thực hiện được hiện đại hóa nông nghiệp thì không những không giải quyết được "nạn nhân mãn" ở đồng bằng Bắc Bộ mà còn khiến nó trầm trọng hơn. Còn tự động hóa nông nghiệp có thể là dùng công nghệ thông tin để phân tích hàm lượng chất dinh dưỡng cần thiết cho từng giai đoạn phát triển của cây trồng, quan trọng nhất có lẽ là ấn định lượng nước cần thiết cho từng giai đoạn phát triển của cây trồng và tự động để máy bơm bơm nước vào hoặc rút nước ra khỏi đồng ruộng. Có lẽ ngay từ bây giờ đã có thể bắt đầu nghiên cứu và ứng dụng việc tự động hóa toàn bộ hay một bộ phận hệ thống tưới tiêu ở đồng bằng Bắc Bộ để đỡ bị động với hạn hán và lũ lụt.

Cùng với trồng trọt, hiện đại hóa chăn nuôi cũng đòi hỏi xây dựng hệ thống chuồng trại lớn, cách ly để chống dịch bệnh, có máy tính lượng thức ăn cho từng lứa tuổi, vật nuôi, cơ khí hóa và tự động hóa việc phân phối thức ăn, việc vệ sinh chuồng trại, v.v...

Một lần nữa cùng với cố GS Lê Bá Thảo, chúng tôi muốn khẳng định rằng diện tích đất trồng lúa nước ở đồng bằng Bắc Bộ là một tài sản vô cùng quý giá do lao động mấy nghìn năm của cha ông ta để lại. Mặc dù cái lợi trước mắt là rất hấp dẫn, ta vẫn cần cân nhắc cẩn thận khi muốn biến dù một diện tích nhỏ đất trồng lúa nước thành đất phi nông nghiệp.

Nhưng muốn đưa các khu công nghiệp lên các vùng đồi núi thấp ở trung du thì phải làm đường giao thông thuận tiện lên các vùng đó, tiền đền bù giải phóng mặt bằng ở đồng bằng sẽ dùng để san nền ở vùng đồi núi, vừa tránh đụng tới đất đai của nông dân, vừa dãn bớt dân từ đồng bằng lên các vùng trung du.

Có thể bạn quan tâm