Đập tan "lá chắn thép" Phan Rang của địch, mở đường tiến quân về giải phóng Sài Gòn

Nhằm cứu vãn tình thế, chính quyền Nguyễn Văn Thiệu, được tướng Mỹ Uây-oen, Tham mưu trưởng lục quân Mỹ, giúp sức, quyết tâm dựng lên ở Phan Rang một "lá chắn thép" hòng chặn đứng, tiêu hao, ghìm giữ một bộ phận lớn binh lực quan trọng của quân ta, giữ vững thế phòng ngự chiến lược cho tới mùa mưa, sau đó, sẽ tính toán những bước đi chiến lược tiếp theo.
Đập tan tuyến phòng thủ từ xa giải phóng Phan Rang.
Đập tan tuyến phòng thủ từ xa giải phóng Phan Rang.

Với toan tính đó, Mỹ và Thiệu tập trung tại đây một lực lượng quân sự mạnh gồm: Sư đoàn 6 không quân, Lữ đoàn 2 dù, Sư đoàn 2 bộ binh, Liên đoàn 31 biệt động quân và bảo an dân vệ ở tiểu khu Ninh Thuận... do Trung tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, Tư lệnh Quân khu 3 chỉ huy, đóng sở chỉ huy tiền phương tại sân bay Thành Sơn (nằm ở phía bắc cách thị xã Phan Rang 10 km). Toàn bộ lực lượng địch với hơn 10.000 tên được trang bị đầy đủ, được sự yểm trợ mạnh của pháo binh và hơn 150 máy bay; được tổ chức phòng ngự liên hoàn chặt chẽ, trên một địa hình có nhiều lợi thế. Với thực lực đó, chính quyền và Bộ Chỉ huy quân đội Sài Gòn nuôi hy vọng sẽ chặn đứng được Cánh quân Duyên Hải trước cửa ngõ Phan Rang.

Về phía ta, quán triệt quyết tâm chiến lược của Bộ Chính trị hoàn thành sự nghiệp giải phóng miền nam trong tháng 4-1975, Tư lệnh Cánh quân Duyên Hải Lê Trọng Tấn ra lệnh cho Sư đoàn 3, Quân khu 5 lập tức đánh chiếm Phan Rang, mở thông đường cho các lực lượng từ phía bắc tiến quân về giải phóng Sài Gòn.

5 giờ 30 phút ngày 14-4-1975, mở màn trận đánh, pháo binh ta bắn cấp tập vào tuyến phòng thủ Phan Rang. Tiếp theo, các chiến sĩ Sư đoàn 3 dũng mãnh đánh chiếm các mục tiêu dọc đường số 1 và các khu vực lân cận như quận lỵ Du Long, các điểm cao 105, 300, Ba Râu, Suối Vàng, Suối Ðá... Cuộc chiến đấu giữa ta và địch trên tất cả các mũi, các hướng diễn ra quyết liệt. Bộ binh địch được sự yểm trợ mạnh của phi pháo, dựa vào hệ thống công sự, hầm hào kiên cố, vững chắc và các địa hình có lợi ngoan cố chống trả. Sư đoàn 3, qua hai ngày chiến đấu quyết liệt với địch, mới đánh chiếm được một số mục tiêu.

Trước nguy cơ tuyến phòng thủ Phan Rang thất thủ, ngày 15-4, Trần Văn Ðôn Phó Thủ tướng kiêm Tổng trưởng Quốc phòng và Nguyễn Văn Toàn Tư lệnh Quân đoàn 3 quân đội Sài Gòn vội vàng bay tới Thành Sơn thị sát tình hình và trực tiếp chỉ đạo, khích lệ tinh thần chiến đấu của binh tướng quyết giữ bằng được Phan Rang.

Trong khi Sư đoàn 3 đang tổ chức tiến công thì Quân đoàn 2 đã hành quân tới Phan Rang. Sư đoàn bộ binh 325 Quân đoàn 2 lập tức được tung vào trận. Phương án tiến công Phan Rang mới đã được Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 và Sư đoàn 3 thống nhất quyết định.

Nghiên cứu phản ứng của địch trước đó, Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 thấy địch đã triệt để lợi dụng sức mạnh của phi pháo, yểm trợ cho bộ binh giữ các trận địa phòng ngự. Trong khi đó, do địa hình Phan Rang phức tạp, các lực lượng tiến công của ta gần như chỉ triển khai được trên một hướng nên khi bị địch dựa chắc vào các điểm cao và địa hình có lợi, tổ chức thành các cụm phòng thủ nối tiếp, liên hoàn với nhau theo trục đường số 1, cụm ngoài bị vỡ, chúng lui về giữ cụm sau làm bàn đạp phản công, khôi phục, quân ta rất khó phát triển. Tuy nhiên, địch cũng bộc lộ một số điểm yếu do phải dàn mỏng lực lượng, khả năng cơ động kém, lực lượng dự bị ít. Nếu ta khống chế được sân bay Thành Sơn và kiềm chế các trận địa pháo chung quanh, tổ chức tiến công nhanh, mạnh, dồn dập, bất ngờ, chắc chắn đội hình địch sẽ bị rối loạn và tan vỡ. Xuất phát từ những phân tích khoa học đó, Quân đoàn quyết định chọn cách đánh tiến công trong hành tiến; tổ chức lực lượng thọc sâu mạnh, dùng xe tăng kết hợp với xe bánh hơi vận chuyển bộ đội Sư đoàn 325 theo đường số 1, chọc thẳng vào thị xã Phan Rang, sau đó, tỏa ra đánh chiếm các mục tiêu còn lại.

Theo phương án đã định, đúng 5 giờ ngày 16-4-1975, hàng trăm xe ô- tô và xe tăng, xe thiết giáp chở bộ binh Sư đoàn 325 của ta được pháo binh bắn yểm trợ, ào ạt tiến đánh thị xã Phan Rang theo trục đường số 1, địch gần như bị tê liệt. Tới 7 giờ, ta làm chủ thị xã, phát triển đánh chiếm cảng Tân Thành, Ninh Chữ, sân bay Thành Sơn. Ðược tin thị xã Phan Rang thất thủ, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi, người đang chỉ huy tuyến phòng thủ vẫn hy vọng, với lực lượng còn lại có thể chặn đứng được các lực lượng ta đang đánh chiếm Phan Rang, nên lập tức tổ chức lực lượng bao vây, tiêu diệt những lực lượng đối phương đã vào thị xã. Do đó, hướng tiến quân của hai tiểu đoàn 2 và 3, Trung đoàn 101 đã bị phi pháo, máy bay địch đánh chặn dữ dội. Nhận thấy chỉ chiếm được sây bay Thành Sơn, nguồn tiếp tế duy nhất của địch thì mới đập tan mọi sự kháng cự cuối cùng của chúng, nên Bộ Tư lệnh Quân đoàn 2 quyết định sử dụng ngay lực lượng đột kích mạnh chiếm sân bay. Ðến 9 giờ 30 phút, quân ta làm chủ sân bay, và tối cùng ngày, tướng Nguyễn Vĩnh Nghi cùng toàn bộ các sĩ quan chỉ huy tuyến phòng thủ Phan Rang bị ta bắt sống.

Kết quả, quân ta tiêu diệt và bắt gọn toàn bộ các Bộ Tư lệnh tiền phương Quân khu 3, Sư đoàn 6 không quân, Sư đoàn 2 bộ binh địch; tiêu diệt và làm tan rã Lữ đoàn 2 dù, Liên đoàn biệt động 31, lực lượng của tiểu khu Ninh Thuận... thu 40 máy bay các loại, 60 khẩu pháo cùng nhiều trang bị kỹ thuật; giải phóng thị xã Phan Rang và tỉnh Ninh Thuận với 320 nghìn dân, đập tan âm mưu ngăn chặn ta từ xa của Mỹ - Thiệu để có thêm thời gian điều chỉnh và củng cố thế trận ở Sài Gòn - Gia Ðịnh. Chiến thắng Phan Rang cùng với thắng lợi của các đòn tiến công chiến lược Tây Nguyên, Trị Thiên - Huế, Ðà Nẵng đã tạo ra bước nhảy vọt về cục diện chiến tranh hoàn toàn có lợi cho ta, đập tan ý định co cụm chiến lược của chính quyền và quân đội Sài Gòn, tạo thêm điều kiện và mở ra thời cơ hết sức thuận lợi để các lực lượng vũ trang cách mạng đẩy nhanh cuộc Tổng tiến công chiến lược, tập trung lực lượng áp đảo cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng tại Sài Gòn.

Có thể bạn quan tâm