Ðám cưới Vũ Trọng Phụng


Nhiều người biết ông Nguyễn Bá Ðạm như một nhà sưu tầm tiền cổ có uy tín và có một vốn hiểu biết khá dày dạn. Ở tuổi ngoại 80, mái tóc trắng như cước và dáng đi hơi còng nhưng con người ông vẫn toát lên vẻ sắc sảo và đầy niềm vui sống. Ông có thể ngồi nói chuyện hàng tiếng đồng hồ về những cổ vật mà ông có được, gắn với nó là vô vàn những câu chuyện kỳ thú về quá khứ. Bên cạnh đó, ông còn có một số sưu tập khác, theo sở thích hết sức nghệ sĩ của ông và cũng không kém phần giá trị. Trong đó, phải kể đến những hiện vật mà ông là người đóng góp một phần không nhỏ cho ngôi nhà tưởng niệm của Vũ Trọng Phụng tại làng Giáp Nhất, mà để có được, ông đã phải đổi một bức tranh chèo của danh họa Bùi Xuân Phái mà ông rất quý. Là một nhà sưu tầm chuyên nghiệp, ông có ý thức về chuyện này từ rất sớm.

Ông kể: "Ðám cưới Vũ Trọng Phụng là một trong những đám cưới to nhất làng Mọc thời ấy, nhưng đến nay chắc cũng còn ít người nhớ được. Bởi những người thân thiết với nhà văn có lẽ cũng chẳng còn ai. Còn tôi tuy lúc ấy mới chỉ là một đứa trẻ 15,16 chưa được xếp vào hàng đi ăn cỗ thì nay đã ngoại 80 rồi". Thực ra là như ông thú nhận, lúc sinh thời của nhà văn Vũ Trọng Phụng, ông không phải người gần gũi hay thân thiết vì ông kém nhà văn tới cả chục tuổi. Nhưng gia đình bà vợ của Vũ Trọng Phụng là bà Vũ Mỹ Lương, lại là hàng xóm gần gũi của gia đình ông. Ông nhớ lại: "Sống ở gần nhau, tình hàng xóm láng giềng, tôi coi bà Vũ Mỹ Lương như bà chị, thường qua lại. Nhà bà Lương có kho sách, mà tôi lại ham sách lắm nên hay sang mượn về đọc". Bà Vũ Mỹ Lương, ở nhà hay gọi tên là Gái là con út người vợ thứ tư của ông Cửu Tích (ông có tới bốn bà vợ và 16 người con), chuyên nghề bốc thuốc chữa bệnh. Lúc còn trẻ cô Gái xinh xắn, ăn nói dịu dàng, thạo may vá thêu thùa. Nhiều thanh niên trai trẻ muốn nhờ người hỏi làm vợ nhưng cô đều tìm cách khước từ. Cô thầm mơ có người bạn trăm năm giỏi văn thơ. Lúc này, Vũ Trọng Phụng đã là một nhà văn tiếng tăm lừng lẫy. Tuy gia cảnh nghèo khó và không có điều kiện học cao, chỉ năm thứ nhất trường Bưởi ông đã phải bỏ học đi làm đỡ mẹ, nhưng trên con đường văn nghiệp ông đã có những tác phẩm làm nên tên tuổi như Số đỏ, Giông tố, Vỡ đê, Lục xì, Cơm thầy cơm cô và nhiều truyện ngắn, tiểu thuyết, phóng sự, kịch khác...


Chùa làng Nhân Chính.

Ðược bà Lượng và ông anh của bà là Phạm Xuân Tiến giới thiệu, hai người buổi đầu gặp đã thấy tâm đầu ý hợp. Ngày 23-1-1938 đám cưới của nhà văn Vũ Trọng Phụng và bà Vũ Mỹ Lương diễn ra như trong... tiểu thuyết, một đám cưới linh đình làm mát mặt họ nhà gái, (phải nói như vậy vì gia đình bà Lương các anh em đều khá giả: Anh cả Vũ Kim Bảng có hiệu thuốc chữa đau mắt ở đường Láng; Anh Vũ Bồi Chinh mở cửa hiệu bánh ngọt ở Cầu Ðất, Hải Phòng; Một ông anh khác là Vũ Cự Chân là chủ hiệu thuốc cam Hàng Bạc có tiếng), với sự giúp đỡ của rất nhiều bạn văn của Vũ Trọng Phụng.Trong cuốn Sổ ghi ơn hiện còn lưu ở nhà tưởng niệm Vũ Trọng Phùng ghi rõ những người đã giúp và mừng cưới. Nhà văn Nguyễn Tuân đi thuê ô-tô ở Hàng Bông. Ngô Tất Tố và Phạm Cao Củng mừng bức trướng có bốn chữ Hồng diệp thi thơ . Ông Nguyễn Văn Ða, chủ nhiệm báo Phụ nữ thời đàm mừng đôi câu đối. Nhà xuất bản Mai Lĩnh in tặng 110 giấy báo hỉ và mừng đôi câu đối. Nhà thơ Ðái Ðức Tuấn mừng một bài thơ lồng trong khung kính. Nhà thuốc Lê Huy  Phách  mừng  bốn  chữ "Quân tử hảo cầu". Hai anh em nhà thơ Nguyễn Giang và Nguyễn Nhược Pháp mừng hai giò hoa thủy tiên. Ngọc Giao, Vũ Bằng, Phùng Bảo Thạch mừng ba chai vang Emer của Pháp. Vũ Ðình Liên mừng một hộp thuốc lá Lucky. Bà cả Viên, chị ruột cô dâu mừng nhiều nhất, những bảy đồng Ðông Dương. Ngoài ra còn nhiều người và nhiều đồ mừng khác như đồng hồ để bàn, pho tượng đồng, áo đoạn, mũ phớt, rượu ngoại, ấm chén Giang Tây và nhiều món tiền, cộng được 63,5 đồng, một món tiền khá lớn, tương đương nửa lạng vàng lúc bấy giờ.

Trước khi cưới nửa tháng, nhà trai đã làm lễ ăn hỏi. Ông Ðạm còn nhớ nhiều nhà trong làng hôm sau được chia một bánh chưng, một bánh dày, một gói nem kèm với quả cau và lá trầu. Cỗ cưới ăn suốt ba ngày, kín cả năm gian nhà chính và ba gian nhà ngang lại phải căng thêm rạp ở sân để ngồi mới đủ chỗ.

Ngày đưa dâu, người lớn, trẻ con trong làng đổ ra xem đông nghịt. Một đoàn ô tô 10 chiếc sơn đen đi theo hàng một tới cổng làng Giáp Nhất thì dừng lại. Chú rể đội khăn, mặc áo đoạn, đi giày hạ. Bên nhà trai, nhiều người mặc âu phục, trong đó nhiều người là bạn văn với Vũ Trọng Phụng. Tiếng pháo nổ giòn, chú rể cùng cô dâu tới trước bàn thờ gia tiên làm lễ. Cô dâu trông thật lộng lẫy, duyên dáng trong chiếc khăn vành dây màu lam chít đầu, hoa tai đầm, cổ đeo kiềng vàng, mặc áo dài mầu hồng, chân đi giày nhung đen thêu hạt cườm. Ðúng giờ hoàng đạo, nhà trai xin phép rước dâu. Ði đầu là cụ già râu tóc bạc phơ mặc áo sa mầu lam, tay cầm ba nén hương. Tiếp sau là chú rể và hai phù rể. Cô dâu đi sau nữa, tay cầm quạt che mặt, hai cô phù dâu đi hai bên. Hai gia nhân mang quả và tráp đựng trầu đi theo sau. Hai người nữa đội hòm, trên có chăn bông bọc vải hoa màu hồng, đôi gối trắng thêu cành hồng con bướm. Ðón dâu lên tới Hàng Bạc, pháo lại nổ giòn, dân phố ùa ra xem. Lên căn gác hẹp có treo mấy bức trướng và câu đối. Cô dâu chú rể lễ gia tiên xong rút lui vào buồng. Còn các bạn hữu ở lại nói chuyện mãi đến khuya.

Sau đám cưới, bà Phụng mở một hiệu sách nhỏ ở phố Hàng Nón. Tiếc rằng đôi vợ chồng trẻ hạnh phúc không được lâu dài. Lúc này bệnh lao của Vũ Trọng Phụng đã nặng, gia đình chuyển về Ngã Tư Sở được ít lâu thì nhà văn qua đời ở tuổi 27 để lại một khối lượng tác phẩm không nhỏ trong đời văn khá ngắn ngủi của ông.

Có thể bạn quan tâm