Chuyện nuôi tôm ở Bình Ðịnh

Nằm ở cuối vùng Khu Ðông thuộc xã Phước Hòa (huyện Tuy Phước, Bình Ðịnh), thôn Huỳnh Giản có 590 hộ (2.700 nhân khẩu) thì đến nay đã có 520 hộ (trên 88%) nuôi tôm. Số còn lại sống bằng nghề đánh bắt thủy sản đơn sơ ở Ðầm Thị Nại (đầm lớn 5.060 ha). Diện tích nuôi trồng thủy sản (NTTS) ở Huỳnh Giản là 327 ha. Nơi đây trước kia vốn là vùng cói, lác; nuôi tôm ở Huỳnh Giản là nghề truyền thống; nuôi quảng canh và bán thâm canh. Ở thời điểm những năm 90, nhất là từ năm 1997 đến năm 2000, các hộ nuôi rất thành công, liên tục được mùa với năng suất cao 2 - 3,5  T/ha. Chỉ trong một thời gian ngắn đời sống của người dân nuôi tôm  Huỳnh Giản đổi thay một trời một vực; nhiều hộ trở thành điển hình nuôi tôm thoát nghèo lên "triệu phú". Nhưng rồi giàu lên quá nhanh và xuống cũng quá nhanh. Bởi liên tiếp từ 2001 đến 2005 nuôi tôm ở đây lâm vào cảnh mùa tiếp mùa mất trắng. Và điều đó cũng đồng nghĩa với việc các hộ nuôi tôm Huỳnh Giản dần rơi vào cảnh nợ chồng lên nợ, nợ mẹ đẻ nợ con; đời sống khó khăn càng lúc khó khăn hơn. Năm 2005, toàn thôn nhận hỗ trợ 23,7 tấn gạo và 248 triệu đồng (Tết Bính Tuất vừa qua có nhiều hộ được chính quyền giúp "đỏ lửa"). Theo thống kê sơ bộ thì đến nay các hộ nuôi tôm ở Huỳnh Giản có tổng dư nợ ngân hàng và các tổ chức tín dụng trên 23 tỷ đồng (chưa tính lãi).

Theo đồng chí Trần Thị Thu Hà, Giám đốc Sở Thủy sản tỉnh Bình Ðịnh thì sở dĩ vùng tôm Huỳnh Giản liên tục bị  mất mùa vì dịch bệnh là do từ 2 nguyên nhân cơ bản: ô nhiễm môi trường nuôi và con tôm giống. Do xuất phát từ hạ tầng  cơ sở nuôi được các hộ đầu tư một cách tự phát, mạnh ai nấy làm; hệ thống nước vào và nước thải không được đầu tư đồng bộ; chất thải thức ăn tôm hàng chục tấn nhiều năm lắng đọng lại; việc tẩy rửa vệ sinh hồ nuôi sau mỗi vụ thu hoạch làm không bảo đảm. Cả một vùng nuôi rộng trên 300 ha chỉ có 3 cửa nhỏ lưu thông với Ðầm Thị Nại và toàn bộ lượng chất thải đổ vào đầm nên mức độ ô nhiễm môi trường ngày càng tăng không chỉ với vùng nuôi mà uy hiếp cả Ðầm Thị Nại - vốn được coi là lá phổi xanh của TP Quy Nhơn. Về con giống, toàn tỉnh hiện có 140 trại giống, sản xuất khoảng hơn 500 triệu con giống/năm. Việc quản lý các trại giống còn nhiều bất cập và chưa chặt chẽ. Sở Thủy sản có một trạm kiểm dịch và bốn trạm ở các huyện. Theo quy định thì các trại này phải đưa tôm giống đến trạm để kiểm dịch. Nhưng trên thực tế tỷ lệ được kiểm dịch hằng năm chỉ đạt 40-45%. Giống tôm các hộ nuôi thả phần lớn không qua kiểm dịch mà thường là giống mua trôi nổi, kém chất lượng (do giá rẻ). Mặt khác ý thức cộng đồng bảo vệ môi trường nuôi kém góp phần làm cho dịch bệnh dễ  phát sinh và nhanh chóng lây lan... Khách quan mà nói thì không phải dân nuôi tôm Huỳnh Giản không có tay nghề nuôi (từ khâu chọn giống đến kỹ thuật nuôi, chăm sóc, phòng trừ dịch bệnh). Nhưng vì - như đã nói, từ điểm xuất phát do đầu tư hạ tầng thấp, tiếp đó là thời kỳ mất mùa liên tiếp nên người nuôi càng thiếu vốn để đầu tư cải tạo, xây dựng hồ nuôi và áp dụng một cách đồng bộ các biện pháp kỹ thuật (kể cả việc mua tôm giống bảo đảm "tiêu chuẩn" và qua kiểm dịch). Một thực trạng hiện nay trên vùng tôm này là toàn bộ hệ thống hạ tầng đã xuống cấp nghiêm trọng; hệ thống cấp thoát nước vốn đã kém nay càng kém hơn; các hồ ao bị sạt lở, hư hỏng làm nguy cơ thẩm thấu cao, mức độ truyền dịch lớn... Khi đi tìm hiểu tình hình khó khăn của vùng nuôi tôm Huỳnh Giản, chúng tôi không khỏi băn khoăn trước câu hỏi: Một mùa, hai mùa, tiếp đến mùa thứ ba, thứ tư - thậm chí kéo đến mùa thứ năm thua lỗ mà tại sao bà con vẫn cứ lao vào nuôi? Theo các đồng chí lãnh đạo Sở Thủy sản thì không phải đợi đến bây giờ mà ngay từ những năm Huỳnh Giản đang ở giai đoạn "cao trào" được mùa, cán bộ của Sở cũng đã thường xuyên xuống cơ sở nuôi khuyến cáo về nguy cơ và khả năng dịch bệnh do ô nhiễm môi trường đang ngày một tăng và mặc dù làm khá bài bản, song từ nhiều năm nay ở đây không thành lập được các chi hội nuôi tôm để thực hiện nuôi cộng đồng. Trước tình hình đó, tỉnh phải cương quyết phân vùng để thành lập chi hội. Trong hai năm liên tiếp (2003-2004), Sở Thủy sản tập trung xây dựng mô hình nuôi tôm cộng đồng (chịu trách nhiệm chung, có ràng buộc từ con giống đến thực hiện các biện pháp tổng hợp ngăn ngừa và chống dịch...). Kết quả thành lập được ba chi hội nuôi tôm. Mặt khác sở đưa ra giải pháp kỹ thuật chuyển sang nuôi tổng hợp  (tôm, cua, cá) để nhằm giảm tỷ suất đầu tư và giảm thiểu ô nhiễm môi trường; hỗ trợ giống cá rô phi đơn tính; cử cán bộ kỹ thuật xuống hướng dẫn, tập huấn nhiều đợt về nuôi trồng thủy sản thân thiện với môi trường, v.v. nhưng vẫn chưa xoay chuyển được tình hình. Còn về phía người nuôi tôm? Tâm lý bám vào con tôm; đặt quá nhiều hy vọng vào nó để trả nợ và phần thì như luyến tiếc "cái thời vàng son" đã chi phối toàn bộ cách nghĩ, cách làm của họ; "biết đâu mùa này lại trúng" cứ thế mà tiếp diễn khiến người nuôi như lao vào canh bạc khát nước với trời. Ngay trong mùa tôm năm 2006, hiện một số hộ nơi đây lại đã tiếp tục xuống giống vì cho rằng, năm rồi có lũ lụt nên môi trường đã được dọn sạch (!). Chính điều này đã trở thành rào cản trong việc chuyển đổi mô hình từ nuôi tôm sang nuôi tổng hợp mặc dù nuôi tổng hợp có mức đầu tư thấp hơn, trong tầm tay người nuôi (nhưng "kẹt" nỗi lời lãi của nó chỉ được 15-20 triệu đồng/năm thì quả thật không mấy hấp dẫn với những người đã từng nắm trong tay hàng trăm triệu đồng lãi qua mỗi mùa tôm). Trong khi đó thôn Vinh Quang (xã Phước Sơn) gần kề Huỳnh Giản thì nhiều hộ nuôi tôm ở đây đã sớm nhận thức ra vấn đề nuôi bền vững và họ nhanh chóng chuyển đổi sang nuôi tổng hợp rất có hiệu quả, tránh được sự rơi vào khủng hoảng như Huỳnh Giản. Thay đổi một nếp nghĩ, một tâm lý quả là điều không dễ. Và cũng phải khẳng định, thời gian qua các cấp chính quyền và ngành thủy sản tỉnh luôn dành sự quan tâm cho Huỳnh Giản với nhiều nỗ lực cao bằng việc làm cụ thể nhằm giúp người nuôi tôm khôi phục và ổn định sản xuất, làm giàu đúng hướng, đúng cách. Nhưng khách quan, bình tĩnh nhìn nhận thì trên thực tế, trách nhiệm của chính quyền, của các đơn vị chuyên môn, kỹ thuật đã làm hết mức, làm rốt ráo chưa, nhất  là trong việc kiên trì tuyên truyền, vận động, giải thích để giúp người nuôi tôm nhận thức ra vấn đề, thấy được "điều hơn lẽ thiệt" mà tự nguyện hăng hái chuyển đổi sang mô hình nuôi tổng hợp? Mặt nữa cũng phải nói là một số cán bộ, đảng viên ở xã, thôn (có gia đình, người thân làm tôm) chưa thực sự gương mẫu đi đầu trong việc chuyển đổi mô hình này. Về phía người dân nuôi tôm? Trước hết chúng ta phải nói rằng, khát vọng làm giàu của họ là hoàn toàn chính đáng. Nhưng điều cần nói ở đây là cách làm hợp lý để đạt tới chứ không thể làm giàu bằng mọi giá. Trong khi đa số người nuôi tôm thực lòng muốn vươn lên sản xuất hiệu quả để có điều kiện trả nợ Nhà nước, thì rất tiếc vẫn còn một số ít có tâm  lý ỷ lại và muốn "xù nợ"!

TỪ quy hoạch chung khu vực nuôi tôm Huỳnh Giản (và Ðầm Thị Nại) nằm trong vùng quy hoạch của Khu kinh tế Nhơn Hội, nên giải pháp để ổn định sản xuất, đời sống, phát triển KT-XH của Huỳnh Giản không chỉ dừng ở việc giải quyết những khó khăn để phát triển NTTS theo hướng nào mà cao hơn là tìm ra hướng phát triển kinh tế cơ bản, phù hợp  với địa  phương trong giai đoạn mới. Qua trao đổi với chúng tôi, đồng chí Chủ tịch UBND tỉnh, Vũ Hoàng Hà, nhấn mạnh: Quan điểm chỉ đạo của tỉnh là cương quyết  không để người nuôi tôm trong tỉnh nuôi theo kiểu như thể "đánh bạc với trời" mà các vùng tôm (trong đó có Huỳnh Giản) phải được dựa trên cơ sở quy hoạch để xây dựng, phát triển những vùng nuôi, mô hình nuôi thủy sản thích hợp theo hướng bền vững. Với Huỳnh Giản, đồng chí cho biết: Trước mắt, tiếp tục thực hiện tốt chính sách xã hội, không để dân đói. Vừa qua tỉnh đã làm việc với các ngân hàng thương mại trên địa bàn để khai thông nguồn vốn vay để người nuôi tôm tiếp tục được vay đầu tư cho sản xuất (cộng thêm vào đó là cho vay từ kênh Quỹ giải quyết việc làm của tỉnh). Mặt khác tỉnh hỗ trợ kinh phí để huyện triển khai giúp các hộ nuôi tôm đắp sửa những bờ ao bị sạt lở nặng. Năm 2006 là năm tỉnh thực hiện chương trình kiên cố hóa kênh mương, theo đó sẽ kết hợp  hỗ trợ các hộ nạo vét kênh mương, xây dựng hệ thống dẫn nước ngọt và nước thải; tỉnh chỉ đạo Sở Thủy sản đẩy mạnh hoạt động tập huấn kỹ thuật nuôi và biện pháp phòng, chống dịch bệnh cho tôm; củng cố hoạt động của 4 trạm kiểm dịch ở các huyện nhằm nâng cao chất lượng con giống. Về lâu dài, hướng phát triển của Huỳnh Giản được xác định là NTTS bền vững theo mô hình nuôi tổng hợp, xây dựng thành một vùng nuôi sinh thái kết hợp phát triển du lịch - dịch vụ. Trong thời điểm này, tỉnh chủ trương đưa chương trình học nghề, giải quyết việc làm vào Huỳnh Giản đồng thời khuyến khích người dân đi lao động nước ngoài. Tuy nhiên để giúp Huỳnh Giản nhanh chóng thoát ra khỏi "cái vòng luẩn quẩn" của nghề tôm, thiết nghĩ cũng cần phải khẳng định lại sự đòi hỏi nỗ lực cao hơn từ cả hai phía: Chính quyền và người dân. Trong đó không thể không nhấn mạnh đến vai trò chủ động vượt lên của người dân nuôi tôm là điều quyết định. Có như vậy thì sự hỗ trợ tích cực trên nhiều mặt của chính quyền các cấp, các ngành mới thực sự nhanh chóng phát huy tác dụng, hiệu quả để nghề nuôi tôm Huỳnh Giản (mà theo chúng tôi đây cũng là vấn đề chung của nghề nuôi tôm ở nhiều nơi khu vực miền trung và cả nước) sớm chấm dứt câu chuyện "đánh bạc với trời"!

Có thể bạn quan tâm