Năm 1956
Hôm nay, đơn vị công binh của tôi đã chuyển ra Quán Chẹt làm nốt đường hầm. Đang hì hục đập những phiến đá thành những viên đá nhỏ thì ở đâu có đoàn y tế đến. Họ đi xe ô tô, mang theo cả một số máy móc để khám tuyển lính không quân. Chúng tôi chỉ biết được chừng đó, thậm chí không biết lính không quân là gì.
Đến lượt tôi, ông bác sĩ bắt há miệng, vạch mắt, xem tai đủ cả, rồi ông ta ghi gì đó vào một tờ giấy gọi là phiếu kiểm tra sức khoẻ. Tôi liếc thấy hầu hết là A, chỉ có vài dòng là B.
Tôi gần như đã quên bẵng việc đi khám tuyển hôm trước, thì bỗng nhiên anh Thanh xuống tiểu đội bảo tôi: Cậu trúng tuyển rồi. Tôi được chuyển về trường Văn Hoá học tiếp.
Thời gian ở Trường Văn hoá, phải nói là cực kỳ khó khăn, cơm không đủ ăn, chúng tôi phải trồng rau để cải thiện bữa ăn hàng ngày thêm cho đỡ đói.
Đêm ở Lạng Sơn lạnh thấu xương nhưng mỗi tiểu đội vẫn phải cắt cử người để lấy phân bón rau. Tiểu đội nào cũng muốn có phân tưới rau cho tiểu đội mình nên không nhanh chân là hết.
Một hôm, chúng tôi ai nấy hí hửng ngồi sẵn trước bàn trong nhà ăn của trường, nhìn chằm chằm vào đĩa rau cải bắp trắng nõn mà nuốt nước bọt vì quá hấp dẫn. Bàn ăn của tôi, được một đĩa có vẻ to hơn cả. Tôi sung sướng gắp một miếng cho vào miệng. Nhưng đưa miếng rau lên miệng, thấy có mùi gì thum thủm chẳng giống mùi thơm của bắp cải tí nào. Hoá ra, dưới rau có một cục phân...
Nhưng quả thật cuộc sống trên trường Văn hoá khổ và đói quá.
Năm 1958
Chúng tôi gồm sáu mươi mốt người, dẫn đầu là Đoàn trưởng Trần Mạnh lên đường sang Trung Quốc qua lối Bằng Tường.
Khác xa với sự tưởng tượng của tôi, việc học bay hoá ra không đến nỗi quá phức tạp. Điều quan trọng là phải nắm chắc lý thuyết để có thể vận dụng hiệu quả nhất. Việc này, với những người trình độ văn hoá lớp mười có lẽ dễ dàng hơn rất nhiều so với những người trình độ lớp 7 như tôi hay lớp 4 như Nguyễn Văn Bảy.
Cũng vì sự hạn chế về kiến thức văn hoá mà Nguyễn Văn Bảy không thể “tiêu hoá” nổi định luật Becnuli, khiến cho trong một trận chiến đấu sau này máy bay của Bảy bị Mỹ bắn trọng thương một lỗ to bằng bàn tay trên thân máy bay chỗ gần buồng lái, Bảy đã suýt mất mạng vì lấy tay bịt lỗ thủng và ngay lập tức bị gió kéo tuột ra ngoài. Sau trận tí chết ấy, Nguyễn Văn Bảy mới vỡ lẽ thế nào là định luật Becnuli còn tôi mới vỡ lẽ ra: Nông dân ngồi buồng lái quả là một điều phi thường!
Đó là chưa kể đến việc có chịu nổi thử thách đối với tiền đình hay không? Trong tất cả các môn thể thao của Không quân, tôi cũng như hầu hết các anh em đều vượt qua khá suôn sẻ kể cả tập vòng xoay 360 độ, chỉ trừ có hai anh chàng Nguyễn Văn Nhơn và Nguyễn Văn Bảy người miền Nam tập kết ra Bắc là hơi vất vả.
Nhơn thì đỡ hơn, chứ Bảy thì luôn luôn có một cái ruột quả bóng đá, cắt cái miệng cho rộng ra và treo lủng lẳng bên mình. Cái ruột quả bóng này có một tác dụng duy nhất là khi nào lên máy bay Bảy có thể nôn thả phanh vào đó. Với Bảy, mỗi một lần lên khoang máy bay đều như bắt đầu một cuộc chiến, dù là bay huấn luyện.
Phi công Trần Ngọc Bích vẫn "nghiện" thuốc lào như ngày xưa.
Năm 1964
Đoàn trưởng Trần Mạnh, Bác sĩ Lê Như Bổng… cùng ngồi trên chiếc máy bay AH-2 mà chúng tôi hay gọi đùa là máy bay Bà già hai tầng, cánh vuông bay vè vè với tốc độ chỉ 300 ki-lô-mét/ giờ. Còn chúng tôi Toại, Bảy, Hoàng, Huyền, Sýu, Chao, Đe, Chung, Huyên, Đức, Xuân, Lộc, Lai,... mỗi người “cưỡi” một chiếc MiG – 17 về nước.
Khoảng không gian từ Mông Tự về Việt Nam trời khá nhiều mây. Kể ra điều đó cũng làm chúng tôi hơi lo ngại, vì một số bài bay như khí tượng phức tạp, bay đêm, bay biển chúng tôi chưa được học và nhất là chưa được luyện tập nhảy dù trong chiến đấu nhiều.
Qua biên giới Việt - Trung, đoàn trưởng Mạnh hét to trong máy bay: Bổng ơi, qua biên giới rồi nhé, ông có nhìn thấy sông Hồng và quốc lộ Lào Cai - Hà Nội không?
Bổng ghé nhìn xuống phía dưới sông và đường chạy song song với nhau xúc động nói gần như khóc: Thấy rồi! Trong đoàn, có anh còn nổi hứng làm thơ. “ Bay trên sông Đuống, sông Hồng/ Ngỡ Hương Giang, ngỡ Cửu Long sóng trào/ Nghiêng đôi cánh bạc trên cao/ Nghe miền Nam gọi xôn xao mây trời” …
Đến khi chiếc máy bay cuối cùng do Nguyễn Khắc Lộc điều khiển là một chiếc máy bay hai buồng lái (cho một bao cát thay người) hạ cánh an toàn vào sân đỗ, thì niềm vui mới thực sự vỡ oà.
Sang Trung Quốc, đoàn chúng tôi có tất cả 61 người. Thế mà sau bảy năm, quân số bị loại dần, cuối cùng chỉ còn 23 người, đủ để thành lập Đoàn không quân Yên Thế.
LƯU HUY CHAO kể, THỦY HƯỚNG DƯƠNG ghi