ND - Có một câu chuyện xin được kể cùng các bạn, cho dù còn biết bao câu chuyện cảm động khác suốt chiều dài cuộc kháng chiến trường kỳ và gian khổ của dân tộc chưa được nói tới, ấy là chuyện hai lần tôi được tiếp máu. Lần thứ nhất là máu của một cô gái, lần thứ hai là máu của một đồng đội.
Câu chuyện xảy ra vào giữa tháng sáu năm 1967 ở huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang bây giờ. Ngày ấy, chiến tranh phá hoại đang vào thời kỳ ác liệt lắm. Hòng chặn đứng con đường huyết mạch của ta từ Lạng Sơn về Hà Nội, giặc Mỹ điên cuồng trút bom, vãi đạn xuống thị xã và những cây cầu quanh vùng phụ cận.
Suốt ngày đêm, khói bom đen đặc phủ kín bầu trời mặt đất, nơi xưa nay vốn nổi tiếng với những làn dân ca quan họ tình tứ mượt mà và bao cô gái quê đẹp người đẹp nết. Nhập ngũ vào đơn vị thông tin quân bưu, tôi được giao nhiệm vụ tiếp chuyển công văn tài liệu từ Hà Nội về các đơn vị thuộc Bộ. Cứ hai người một tổ, hai xe đạp có biển đăng ký đỏ chót, hai khẩu súng AK đeo chéo sau lưng cùng túi công văn tài liệu, chúng tôi vượt qua đêm mưa ngày nắng, trực tiếp đối mặt với quân thù.
Hôm ấy, không gian báo hiệu một ngày nắng gắt. Mới 8 giờ sáng, trời đã rực lên như một bếp than. Tôi và đồng chí tổ trưởng nhận công văn khẩn chuyển đến một trận địa phòng không trên tuyến đê sông Cầu. Vừa phóng xe được nửa đường thì lũ giặc trời bất ngờ lao tới trút bom. Cả một đoạn đê bung lên và chúng tôi bị hất xuống một bãi dâu gần đó. Tôi bị thương, máu ra nhiều quá. Anh tổ trưởng đã buộc hết cả túi băng dự phòng mà máu vẫn không ngừng chảy, thấm đỏ nhòe chiếc áo tân binh của tôi. Nửa mê nửa tỉnh, tôi biết có hai bố con người chăn dê đang tránh bom gần đó lao đến giúp anh tổ trưởng. Họ khiêng tôi vào khu bệnh viện huyện sơ tán. Ðồng chí tổ trưởng, sau khi nói lời nhờ cậy, đã phải chạy bộ để giao công văn cho kịp giờ, bởi hai xe đạp của chúng tôi đã hỏng.
Vào đến bệnh viện thì tôi không còn biết gì nữa. Mãi sau này, trước khi xuất viện, tôi mới được biết, người cho tôi máu chính là cô con gái của ông già chăn dê dọc đường. Tôi bình phục trở về và ngay sau đó, cùng một vài anh em được lệnh chuyển đi đơn vị mới, với một nhiệm vụ mới: Xây dựng đường dây trần chiến lược từ Trung ương vào phục vụ liên lạc cho chiến dịch Tổng tiến công Mậu Thân ở Huế. Tôi lên đường hành quân vào nam mà lòng nặng trĩu một lời cảm ơn chưa kịp nói với bố con người đã cứu sống mình. Trong dòng huyết quản người trai 20 tuổi và chưa tròn một tuổi quân như tôi, nào ai hay được có cả những giọt máu nghĩa tình của người con gái Quan họ mà tôi chưa hề biết tên, biết mặt. Chiến tranh qua đi mấy chục năm rồi, tôi vẫn chưa thể tìm về nơi ấy...
Người thứ hai tiếp máu cho tôi là anh Ðáng, cũng quê vùng Việt Yên tỉnh Bắc Giang. Anh về cùng tiểu đội với tôi sau khi đường dây trục đã hoàn thành và chiến dịch Tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân đã bùng nổ trên toàn miền nam. Lúc này, chúng tôi phải vừa củng cố đường dây chiến lược, vừa triển khai đường nhánh và kéo thêm những đôi dây dã chiến chạy vu hồi, quyết tâm bảo đảm liên lạc thông suốt cho Bộ Tư lệnh mặt trận. Tôi lại bị thương trong những ngày đó, khi đang loay hoay ngụy trang đường dây trên vòm cây, một viên đạn AR15 của thám báo ngụy đã buộc tôi gục xuống. Nghe tiếng súng nổ, anh em lao đến và tụi thám báo lập tức chuồn thẳng.
Ðáng cùng hai đồng chí nữa, thay nhau khiêng cáng đưa tôi về Quân y viện 68 Tây Thừa Thiên, ở đây, một lần nữa, trước khi mổ để lấy ra cái đầu đạn tai ương ấy, người ta lại phải tiếp máu cho tôi. Và như một sự sắp xếp của định mệnh, Ðáng là người duy nhất có cùng nhóm máu. Lần này thì tôi biết đích xác người mình sẽ phải chịu ơn, vì chỗ tôi nằm trước khi phẫu thuật chỉ cách nơi lấy máu một tầm tay với. Sau bức màn gió trắng, ngăn với phòng phẫu kia, tôi hình dung ra khuôn mặt võ vàng sốt rét của anh đang co lại, cái thân hình cò lửa dài ngoẵng như cũng đang co lại, cố san cho tôi những giọt sống ấm nồng.
Khi tôi về đến đơn vị thì Ðáng đã được lệnh trở ra bắc đi học tại một trường quân chính.
Trung đoàn của tôi, do yêu cầu nhiệm vụ, sáp nhập với trung đoàn khác để thành một lữ đoàn bảo vệ và khai thác thông tin liên lạc thời bình. Với chúng tôi, những người đã nghỉ hưu về với đời thường.
Trên đường ra bắc đi học, Ðáng bị sốt rét quá nặng, phải nằm dọc đường Quảng Bình chờ cắt cơn đi tiếp. Anh về đến trường chậm gần một tháng. Ðáng phải gắng sức học bù. Ðến năm thứ tư, biết sức khỏe không thể học tiếp, cấp trên cho anh phục viên. Là nông dân nhưng sức đâu cày ruộng? Ðịa phương cử anh làm thư ký đội sản xuất. Những khi nông nhàn , anh thồ cà chua , cải bắp vườn nhà xuống bán tận đầu cầu thị xã. Ðến năm 1979 anh mới lấy vợ. Ấy là người con gái anh quen trên dọc đuờng đi bán rau quả. Nhà cô dưới chân con đê lộng gió. Cô là chiến sĩ thông tin của tỉnh đội, đã xuất ngũ sau giải phóng miền nam. Ðứa con trai đầu của họ đã 23 tuổi, vừa tốt nghiệp trường sĩ quan thông tin, được điều về Quân khu I, đơn vị đóng ở gần nhà...
Ngồi trên xe ôm trở lại con đường Việt Yên, tôi không thể nào tìm ra cảnh cũ. Những đổi thay trên vùng đất này mấy chục năm qua khiến lòng tôi canh cánh một điều: Liệu người con gái từng tiếp máu cho mình năm xưa còn hay đã mất? Cuộc đời suôn sẻ hay lên thác xuống ghềnh? Khuôn mặt của cô ngày ấy, tôi nào nhìn rõ, và liệu rồi cô có nhận được tôi chăng? Những vấn vương ấy theo tôi cả khi đã ngồi trong nhà của Ðáng, bên ấm chè tươi sánh đặc. Cậu con trai tên Mùi, một sĩ quan thông tin trẻ măng cứ cuống quýt cả lên, không hiểu do nỗi mừng sắp sửa lấy vợ hay vì được biết tôi chính là người bố anh nhắc đến rất nhiều mỗi khi nhớ về đơn vị, và tôi cũng còn là người được bố anh tiếp máu. Ðôi mắt anh chàng sĩ quan chớp chớp liên hồi khi nghe tôi kể lại nhiều điều của thời xa xưa ấy.
Rồi cánh cổng gỗ cọt kẹt mở ra, vợ anh cùng con gái vừa từ cánh đồng trở về, chân còn ngấn bùn và khăn che kín mặt.
Có cái gì đó tựa hồ dòng điện chạm vào người tôi và như sóng loang ra trên toàn cơ thể, khi Ðáng giới thiệu vợ và con gái của anh với tôi, rồi nói thêm: "Ông ấy về đây còn có mục đích tìm lại cô gái ngày xưa từng hiến máu đấy!".
Tôi thấy chị một giây sững lại, chiếc khăn trùm đầu đang mở chợt rơi xuống đất. Hình như linh tính mách bảo hay trí nhớ tuyệt vời trời phú mà chị nhận ngay ra tôi sau ngót 40 năm, kể từ ngày bố con chị khiêng tôi đi cứu chữa. Chị chỉ kịp kêu lên:
- Ối giời ! Là bác đấy ư?
Rồi chị nghiêng đầu ngã vào vòng tay con gái.
Ðêm đó, cả tôi và gia đình Ðáng không ai ngủ được. Trong niềm vui ấy, mỗi người có lý do khác nhau để mà thao thức. Tôi cứ nghĩ mãi về câu nói của chị, khi biết tôi có ý định ghi lại câu chuyện này. Chị nói:
- Tùy bác ! Nhưng bác đừng nêu tên em lên báo. Những người như vợ chồng em ở đất này, chả hiếm.
Minh An