Nguy cơ mai một
Văn hóa truyền thống các DTTS là những giá trị vật chất, tinh thần được tích tụ, gìn giữ trong toàn bộ quá trình lịch sử phát triển các DTTS. Trong dòng chảy toàn cầu hóa, bảo tồn văn hóa truyền thống các DTTS nhằm lưu giữ tính đa dạng của văn hóa Việt Nam, làm phong phú kho tàng văn hóa thế giới; giúp tăng cường khai thác nguồn tài nguyên văn hóa, thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước. Bên cạnh đó, làm tốt công tác này còn góp phần nâng cao lòng tự hào, tự tôn dân tộc; chống lại những âm mưu phá hoại, chia rẽ của các lực lượng thù địch. Tuy nhiên, trong bối cảnh cuộc sống hiện đại, song song với cơ hội được giao lưu, hội nhập là nguy cơ nhiều giá trị văn hóa truyền thống, nhất là của các DTTS bị mai một, lãng quên. Trong số 54 dân tộc Việt Nam, có những dân tộc chỉ có số dân dưới mười nghìn người như Pà Thẻn, Cờ Lao, Lô Lô, Mảng, Lự, Cống, Bố Y, La Ha, La Hủ…; thậm chí có những dân tộc chỉ có số dân dưới một nghìn người như Si La (Lai Châu), Pu Péo (Hà Giang), Ơ Đu (Nghệ An)… Đây là những dân tộc khó có khả năng và điều kiện tự bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa của mình.
Thách thức đầu tiên phải kể đến là khả năng đánh mất ngôn ngữ truyền thống, linh hồn của văn hóa dân tộc, cũng là phương tiện để chuyển tải, trao truyền nghệ thuật, phong tục tập quán của các tộc người. Nhà nghiên cứu văn hóa Thái Lò Văn Lả ở Sơn La cho biết: Người Thái là một trong những tộc người thiểu số có số lượng đông nhất nước ta, cũng có chữ viết từ sớm; nhưng từ những năm 70 của thế kỷ 20 trở lại đây, tiếng Thái rất ít được dùng. Chỉ có đài phát thanh, truyền thanh ở các huyện, thị xã còn có chương trình tiếng Thái; còn trong giao tiếp hằng ngày ở thành thị, thậm chí tại nhiều gia đình có bố mẹ là người Thái, chỉ toàn dùng tiếng phổ thông. Ở nông thôn, một số nhà vẫn dùng tiếng Thái nhưng rất ít. Hiện số người biết viết chữ Thái chỉ đếm trên đầu ngón tay. Trong khi đó, các trường học cũng chỉ dạy bằng tiếng phổ thông. Ngôn ngữ DTTS không được giảng dạy như một song ngữ cho chủ thể văn hóa, cho nên ngày càng mất chỗ đứng trong đời sống hằng ngày.
Bên cạnh đó, âm nhạc, vũ đạo, trang phục vốn được coi là bản sắc của đồng bào DTTS cũng đứng trước nguy cơ thất truyền. Giống như đàn bầu của người Việt, thì tính tẩu của người Tày, Thái; tơ rưng, cồng chiêng của các DTTS ở Tây Nguyên; khèn của người Mông… là những nhạc cụ điển hình của từng dân tộc. Tương tự, những điệu múa sạp, múa chiêng của đồng bào Mường, Thái; múa trống, múa xúc tép của dân tộc Cao Lan; múa chèo thuyền, múa hoa sen của đồng bào Khmer Nam Bộ… đều là những di sản văn hóa tinh thần đặc biệt của các dân tộc. Tuy nhiên, tất cả những loại hình nghệ thuật này đều đang dần ít xuất hiện. Nhạc sĩ Nông Quốc Bình, Chủ tịch Hội Văn học - Nghệ thuật (VHNT) các DTTS Việt Nam nhận định: “Mặt trái của quá trình giao lưu văn hóa là yếu tố bản sắc dân tộc rất có thể bị mất đi. Các hình thức nghệ thuật, những điệu múa cổ truyền cũng ngày càng vắng bóng. Những người lớn tuổi trong mỗi cộng đồng dân tộc không còn điều kiện truyền lại các kỹ năng, hiểu biết của mình cho lớp trẻ, bởi nhiều người cho rằng, việc giữ gìn những giá trị văn hóa truyền thống này ít có giá trị trong cuộc sống hiện đại”. Trước sức phát triển nóng của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kỹ thuật làm thủ công các sản phẩm dân gian truyền thống cũng có nguy cơ tiêu vong. Lâu nay, các mặt hàng dệt thổ cẩm; thêu hoa văn; chế tác nhạc cụ dân tộc bằng chất liệu đá, đồng, tre, nứa… vẫn là niềm tự hào, là minh chứng cho óc sáng tạo, sự khéo léo của người Việt Nam. Song, do thiếu đầu ra, lại vấp phải sự cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp bán sẵn hàng loạt, kỹ thuật làm thủ công dần bị mai một, lãng quên.
Cần “giải cứu” kịp thời
Đứng trước những thách thức ấy, việc khôi phục, bảo tồn, phát triển giá trị văn hóa cổ truyền các DTTS Việt Nam trở thành nhiệm vụ cấp bách, vừa mang tính trước mắt, vừa mang tính lâu dài. Mới đây, trong hội thảo khoa học “Thực trạng và giải pháp bảo tồn, phát huy văn hóa cổ truyền các DTTS Việt Nam” do Hội VHNT các DTTS Việt Nam phối hợp Liên hiệp các hội VHNT Việt Nam tổ chức, nhiều đại biểu cho rằng, văn hóa cổ truyền các DTTS muốn bảo tồn, phát huy nhất thiết phải được đặt trong môi trường sinh hoạt văn hóa cộng đồng.
GS, TS Phan Đăng Nhật khẳng định: “Toàn bộ kho tàng khổng lồ văn hóa các DTTS vốn sống trong môi trường cộng đồng; được sinh thành, nuôi dưỡng và phát triển trong môi trường này, phục vụ cuộc sống vật chất và tinh thần của cộng đồng. Phải trả nó về cộng đồng, công chúng để họ giữ gìn và phát triển trong môi trường gốc”. Bên cạnh đó, ông cũng lưu ý, cần tận dụng và lợi dụng thế mạnh của kỹ thuật truyền thông hiện đại để chuyển tải các giá trị văn hóa DTTS có sức hấp dẫn, lan tỏa mạnh mẽ hơn. Theo TS Ma Ngọc Dung (Bảo tàng Văn hóa các dân tộc Việt Nam), để văn hóa các DTTS có thể sống trong nhân dân, cần vận động người dân sản xuất các loại đồ dùng truyền thống tiêu biểu dưới hình thức gia đình hoặc nhóm sản xuất. Tất nhiên, việc sản xuất phải gắn liền phương án tiêu thụ. Hiện nay, các sản phẩm này được tiêu thụ khá tốt ở các điểm du lịch với vai trò quà lưu niệm. Tuy vậy, khi khai thác văn hóa truyền thống kết hợp du lịch, cần có biện pháp để vừa phát huy điểm tích cực từ hoạt động thương mại hóa, vừa bảo đảm chủ trương bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống đích thực. Bên cạnh đó, Đảng và Nhà nước cần có chính sách giáo dục mang tầm vĩ mô về tầm quan trọng của việc bảo tồn văn hóa dân tộc, không chỉ là trong từng cộng đồng dân tộc, mà cần đồng đều cho mọi đối tượng. Hình thức tuyên truyền có thể qua nhiều phương tiện thông tin đại chúng hay lồng ghép vào các hoạt động, chương trình văn hóa văn nghệ. Ngoài ra, cũng cần có biện pháp lồng ghép với chương trình giáo dục học đường, nhất là về ngôn ngữ và văn hóa truyền thống ở chính các trường học có con em DTTS theo học. Điều đó sẽ giúp các em ngay từ nhỏ đã biết tôn vinh, bảo vệ nền văn hóa truyền thống khi bắt đầu giao lưu, tiếp xúc với văn hóa bên ngoài.
Để không làm thất lạc các giá trị văn hóa DTTS, công tác nghiên cứu, sưu tầm, hệ thống hóa và bảo quản tư liệu cũng vô cùng quan trọng. Ông Hoàng Tuấn Cư (Hội VHNT các DTTS) cho rằng: Phải có chính sách khuyến khích các nghệ nhân trao truyền di sản văn hóa, lồng ghép cùng chính sách ưu đãi đối với nghệ nhân ưu tú và nghệ nhân nhân dân ở các dân tộc. Từ đó, khuyến khích hoạt động nghiên cứu, sưu tầm, bảo quản, truyền dạy và giới thiệu các di sản văn hóa của cộng đồng các DTTS. Để thực hiện điều này, ngoài tâm và tầm của người nghiên cứu, sưu tầm, cần có sự chung tay đắc lực của già làng, trưởng bản, nghệ nhân và những người có uy tín, am hiểu về văn hóa, phong tục tập quán dân tộc mình.