Toàn quốc kháng chiến - Bản hùng ca về ý chí bảo vệ độc lập, tự do

Chủ tịch Hồ Chí Minh trang bị kiến thức quân sự cho quân và dân ta chuẩn bị kháng chiến

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhất là từ nửa cuối năm 1946, trước âm mưu và hành động hiếu chiến của thực dân Pháp, nguy cơ chiến tranh trên phạm vi cả nước ngày càng tới gần. Dưới bút danh Q.Th và Q.T, Chủ tịch Hồ Chí Minh lần lượt công bố 23 bài viết về quân sự trên báo Cứu quốc - Cơ quan ngôn luận của Đảng ta hồi đó, nhằm góp phần trang bị kiến thức quân sự thiết yếu cho quân và dân ta chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ, gian khổ.

Tiến hành kháng chiến toàn dân, toàn diện

Phân tích tính chất, quy mô của cuộc chiến tranh, Người khẳng định: "Trước kia chỉ đánh nhau về một mặt quân sự, nhưng ngày nay đánh nhau về đủ mọi mặt quân sự, kinh tế, chính trị, tư tưởng nên người ta gọi là toàn diện chiến tranh. Chiến tranh ngày nay phức tạp và hết sức khó khăn. Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được".(1)

Để nhân dân hiểu rõ thế nào là toàn dân kháng chiến, Người giải thích rất đơn giản, dễ hiểu: "Cậu bé chăm chỉ học hành trong nhà trường cũng là kháng chiến. Anh dân cày cày cuốc ngoài đồng ruộng, anh thợ cặm cụi trong nhà máy, chị bán hàng buôn bán ngược xuôi, ông già xách giỏ đi câu cũng là kháng chiến. Các công chức, các nhà văn, nhà báo mải miết trước bàn giấy, cạnh tủ sách cũng là kháng chiến. Các y sinh, khán hộ lăn lộn bên giường bệnh cũng là kháng chiến. Các nhà giàu có đem hết tài lực mở mang xưởng thợ, khai thác ruộng đất cũng là kháng chiến. Đó là toàn dân kháng chiến".(2)

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, kháng chiến toàn dân đã bao hàm kháng chiến toàn diện. Để đánh bại chiến tranh tổng lực của kẻ thù, nhất thiết ta phải dùng sức mạnh của toàn dân, phải chú trọng xây dựng sức mạnh quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa và ngoại giao. Do đó, toàn thể nhân dân Việt Nam không phân biệt trai gái, trẻ già, giai cấp, đảng phái, tín ngưỡng và nghề nghiệp... đều phải trở nên chiến sĩ đấu tranh trên mặt trận quân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa.

Thực hiện toàn dân kháng chiến, Người yêu cầu chú trọng động viên tinh thần. Nghĩa là phải tập trung hết thảy lực lượng tinh thần, ý chí, tư tưởng của từng cá nhân và của toàn quốc dân hướng về một chiều để cùng đi tới một mục đích: kháng chiến thắng lợi. Muốn vậy, phải hết sức chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, có phương pháp động viên, tổ chức lực lượng phù hợp mới phát huy được sức mạnh đoàn kết, lòng yêu nước, tính năng động, sáng tạo của nhân dân trên tất cả các mặt.

Trường kỳ kháng chiến, trải qua nhiều giai đoạn gian khổ

Trên cơ sở phân tích âm mưu và thủ đoạn của thực dân Pháp, Người nhận định: "Chiến lược của chúng là chiến lược tiến công đánh chớp nhoáng".(3) Chúng sẽ huy động lực lượng cùng các loại vũ khí tối tân hòng đè bẹp cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ trong trứng nước, sớm kết thúc chiến tranh. Để đối phó thực dân Pháp, quân và dân ta cần quán triệt, thực hiện chiến lược đánh lâu dài, từng bước chuyển hóa thế và lực có lợi cho ta.
Trước kia, Tôn Tử nêu nguyên tắc, chiến tranh cần giải quyết thật nhanh chóng. Còn trường kỳ kháng chiến của ta thì lại áp dụng những nguyên tắc quân sự trái ngược, vì đây là chiến tranh tự vệ, chiến tranh giải phóng dân tộc. Một nước vừa giành được độc lập, từ tay không đứng lên chống giặc ngoại xâm, thì trường kỳ kháng chiến là con đường tất yếu nhằm có thời gian tạo lực, tạo thế, càng đánh càng mạnh, giành thắng lợi từng bước, tiến lên giành thắng lợi cuối cùng. Do đó, cuộc kháng chiến của nhân dân ta "cần chuẩn bị đầy đủ và tất nhiên qua nhiều giai đoạn khổ sở, gian lao".

Do so sánh lực lượng quân sự, thời kỳ đầu, Người chỉ dẫn quân và dân ta "áp dụng chiến lược phòng ngự" nhằm ngăn chặn, tiêu hao một bộ phận sinh lực địch, tạo thế và thời cơ để tổ chức phản công, tiến công. Phòng ngự, theo Người không phải cố chết để giữ mà phải luôn giữ thế tiến công, chủ động tiến công địch lúc khởi đầu chiến tranh, trước khi đối phương kịp hành động; chủ động tìm địch mà đánh, tiến công địch khắp mọi nơi. Đồng thời, phải thực hiện "chiến lược tiêu hao sinh lực địch", bởi đây là "chiến lược rất màu nhiệm trong cuộc chiến tranh tự vệ". Trong tình hình so sánh quân sự nghiêng về phía địch, phải hết sức tránh những trận quyết chiến bất lợi. Vì vậy, "dù có phải rút lui ở một vài căn cứ cũng không lấy gì làm ngạc nhiên" và cũng không nên "cố chết để giữ bo bo một thành thị nào nếu xét ra chưa có lợi". Vấn đề là làm thế nào để bảo toàn, phát triển lực lượng "chờ thời cơ trừ diệt quân địch".

Phương pháp tác chiến và chiến thuật

Trong bài "Chiến lược của quân ta và của quân Pháp", Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Về phương pháp tác chiến, chúng ta áp dụng vận động chiến song song với du kích chiến".(4) Vận động chiến có mục đích trừ diệt phần lớn quân địch, còn du kích chiến là làm sao cho lực lượng dân quân, tự vệ có mặt khắp nơi, vừa quấy rối, vừa làm hao mòn lực lượng của địch, buộc chúng phải dàn quân trên một diện rộng đối phó với ta.

Để thực hiện du kích chiến, Người chỉ dẫn phải tổ chức đội cảm tử, đội phá hoại, đội đánh úp, đội đánh mai phục, đội cướp lương thực, súng đạn, đội trinh sát, đồng thời phải triệt để thực hiện "vườn không nhà trống". Trong thành phố phải đào hầm thông qua các phố, dựng chướng ngại vật, "phải biến mỗi nhà thành một ổ kháng chiến". Ở các địa phương, phải tổ chức lực lượng, dùng đủ mọi phương pháp để cản trở quân địch, khiến cho địch đến đâu cũng bị tiêu hao lực lượng, không thể tiến quân được. Để kháng chiến, "mỗi làng ngay từ bây giờ phải biến ra một thành lũy kháng chiến". Trên các đường giao thông phải đắp nhiều đất, đặt nhiều địa lôi, nhất là nơi cầu, cống. Nếu có xe tăng, thiết giáp của địch qua, ta sẽ dùng địa lôi để phá hủy cầu, đường và phá hủy xe tăng địch...

Người yêu cầu trong tác chiến "bất luận một động tác gì cũng phải nhanh. Hành quân nhanh, đánh trận nhanh, súng bắn nhanh". Nhưng nhanh chóng không phải là hấp tấp, vội vàng mà phải tuân theo nguyên tắc "vừa nhanh vừa có mưu cơ". Phải luôn giữ địa vị chủ động, tránh nơi mạnh, đánh nơi yếu, hành động bí mật, nhanh chóng, chính xác. Đánh giữ, tiến thoái phải luôn luôn biến đổi hợp với thời cơ, hợp với tình hình trên mặt trận. Nhanh như chớp, biến hóa như thần. Đó là bí quyết của phép dụng binh.

Đặc biệt, phải tuyệt đối giữ bí mật lực lượng, phương tiện, thời gian và cách đánh: thời kỳ tiến đánh quân địch đã đến nhưng làm thế nào cho quân địch tưởng là chưa đánh vội; tiến đánh những nơi rất hiểm yếu nhưng địch lại sơ hở, không đề phòng. Trong tác chiến, phải hết sức khéo léo, linh hoạt: Có lúc phòng ngự để tiến công, có lúc rút lui để tiến lên phía trước. Có lúc đánh cạnh sườn để rồi đánh chính diện. Có lúc đánh đường vòng để rồi đánh đường thẳng. Đồng thời, phải dùng cả biện pháp tuyên truyền, vận động để không đánh mà thuyết phục được binh lính địch.

Phương pháp vận dụng địa hình, địa thế

Nội dung này được Chủ tịch Hồ Chí Minh giới thiệu trong các bài "Bàn về địa hình", "Địa thế" và "Phương pháp chiến đấu và hành quân trên các địa hình". Người khẳng định: Trong quân sự, địa hình, địa thế là một trong những yếu tố hết sức quan trọng, không nghiên cứu tận tường, lợi dụng một cách có hiệu quả thì không thể xuất trận thành công được. Người nhấn mạnh ưu thế về thiên thời, địa lợi, nhân hòa của ta: "Từ hang cùng ngõ hẻm, núi sâu rừng rậm, đâu đâu cũng là đất nước Việt Nam, đâu đâu cũng có dân Việt Nam ở. Quân địch tiến đến chỗ nào, không thuộc địa hình, địa vật bằng dân quân Việt Nam ở chỗ đó".(5)

Người chỉ dẫn cho quân và dân ta cách lợi dụng và chiến đấu trên các loại địa hình, địa thế thường gặp, nhất là cách ứng biến và phương pháp hành quân, chiến đấu trên các địa hình bằng phẳng, địa hình dốc, địa hình núi non hiểm trở, vùng đồng bằng, vùng có nhiều sông ngòi, đầm ao... Người chỉ ra sáu loại địa hình cần tránh trong lúc tiến quân: đường độc đạo lên dốc núi cao; thung lũng trũng xung quanh có núi cao bao bọc; khu rừng núi quanh co tiến vào dễ nhưng ra khó; những nơi cây cối um tùm, gai góc rậm rạp tiến thoái không được tự do; những đồng lầy; những đường độc đạo... Người căn dặn: Nếu gặp những địa điểm trên này phải trinh sát hết sức cẩn thận, tránh bị rơi vào cạm bẫy của địch.(6)

Phương pháp động viên kinh tế cho kháng chiến

Dưới nhan đề "Động viên kinh tế", Người viết: "Một cuộc kháng chiến lâu dài để giữ vững chủ quyền của đất nước... không thể không chú ý vấn đề động viên kinh tế". Người nêu lên sáu phương pháp động viên kinh tế: 1) Động viên lao động, nghĩa là phải huy động, phân bố, phân công lao động hợp lý, chú trọng trưng dụng nhân tài để tăng thêm lực lượng kháng chiến. 2) Động viên giao thông, là huy động, phát triển các phương tiện giao thông; tổ chức lực lượng xây dựng, sửa chữa kịp thời hệ thống giao thông phục vụ kháng chiến, kiến quốc. 3) Động viên công nghệ là mở nhiều xưởng sản xuất đáp ứng nhu cầu kháng chiến; khuyến khích tư nhân phát triển công nghệ; sẵn sàng di chuyển máy móc thiết bị, nguyên liệu đến vùng hẻo lánh. 4) Động viên nông nghiệp, là có chính sách khuyến khích nhân dân mở mang nông nghiệp, tăng thêm diện tích cày cấy, khai khẩn đất hoang, cải tiến công cụ. 5) Động viên tài chính, là biết huy động vàng bạc trong nhân dân, phát hành công trái, thu ngân sách để bảo đảm quốc phòng. 6) Tiết kiệm, phải lập ủy ban để kiểm soát việc cung cấp, tiêu dùng lương thực, định giá cả, phân phối hợp lý; tiết kiệm tiền bạc, lương thực, nguyên vật liệu; nghiêm cấm tiêu dùng xa xỉ, vô ích,...(7)

Từ các nội dung nêu trên, nét đặc sắc là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm xác định đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến, dựa vào sức mình là chính; xây dựng nên một hệ thống lý luận quân sự phù hợp trình độ tác chiến, trang bị vũ khí, điều kiện kinh tế, khoa học kỹ thuật của ta trong những ngày đầu Toàn quốc kháng chiến. Tư duy ấy hàm chứa sâu sắc tư tưởng truyền thống "cả nước đánh giặc", "trăm họ đều là binh", "lấy ít địch nhiều", "lấy đoản binh chế trường trận"; kết hợp chặt chẽ các yếu tố "thiên thời, địa lợi, nhân hòa", "lực, thế, thời, mưu" để đánh địch. Những kiến thức quân sự cơ bản đó đã được quân và dân ta tiếp thu, vận dụng thành công trong 30 năm chiến tranh cách mạng (1945-1975), hiện vẫn còn nguyên giá trị trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

-----------------

(1) "Hình thức chiến tranh ngày nay" - Q.Th, Báo Cứu quốc, số 351, ngày 20-9-1946

(2) "Toàn dân kháng chiến" - Q.T, Báo Cứu quốc, số 83, ngày 5-11-1945

(3); (4) "Chiến lược của quân ta và của quân Pháp" - Q.T, Báo Cứu quốc, số 434, ngày 13-12-1946

(5) "Chiến đấu vì chính nghĩa" - Q.T, Báo Cứu quốc, số 427, ngày 6-12-1946

(6) "Phương pháp chiến đấu và hành quân trên các địa hình" - Q.T. thuật, Báo Cứu quốc, số 406, ngày 15-11-1946

(7) "Động viên kinh tế" - Q.T, Báo Cứu quốc, số 434, ngày 13-12-1946