Trong cách viết, cách nói nét đặc trưng ở Người là tạo lập mối liên hệ giữa người nói và người nghe (người viết và người đọc) trước khi đi vào vấn đề chính để thu hút sự chú ý của các liên chủ thể trong khi mối giao cảm giữa họ đang hình thành.
Trong các bài nói, bài viết cũng như khi trao đổi chuyện trò, phong cách ứng xử của Người là luôn luôn quan tâm đến người đối thoại. - Một yếu tố quan trọng dẫn đến hiệu quả cao trong giao tiếp. Nghệ thuật mở đầu câu chuyện, dẫn dắt việc giao tiếp theo tính mục đích và ý đồ định sẵn của giao tiếp đặt ra.
Bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn gắn liền với việc làm rõ tính mục đích của nội dung sẽ được trình bày: Viết cho ai? Viết để làm gì? Viết cái gì? và Viết như thế nào?
Bài viết này đề cập những điểm cơ bản trong giao tiếp ngôn ngữ trong các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ yếu ở cấp độ từ ngữ, thành ngữ.
Trong bài giảng tại lớp chỉnh Ðảng trung ương ngày 17-8-1953 (sau này in thành sách dưới tựa đề Cách viết) khi nói đến mục Cách viết như thế nào?
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết một cách nôm na, giản dị: "Trước hết là cần phải tránh cái lối viết "rau muống", nghĩa là lằng nhằng "trường giang đại hải", làm cho người xem như là "chắt chắt vào rừng xanh". Mình viết ra cốt để giáo dục, cổ động, nếu người xem mà không nhớ được, không hiểu được, là viết không đúng, nhằm không đúng mục đích. Mà muốn cho người xem hiểu được, nhớ được, làm được thì phải viết cho đúng trình độ của người xem, viết rõ ràng, gọn gàng, chớ dùng chữ nhiều"(1).
Hoặc tại hội nghị cán bộ văn hóa ngày 30-10-1958 Người đã nhận xét: "Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng, quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa... Những câu tục ngữ, những câu vè, ca dao rất hay là những sáng tác của quần chúng. Các sáng tác ấy rất hay mà lại ngắn, chứ không "trường thiên đại hải", "dây cà ra dây muống"..." (2).
Ở đây cái mà Bác nhằm đạt tới ở người nghe (và người đọc) chính là cái quy định nội dung và cách thể hiện của phát ngôn. Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú ý đến mục đích, đối tượng liên cá nhân (người phát và người tiếp nhận) và hoàn cảnh của giao tiếp, mà trong giao tiếp thì phát ngôn của người nói hay người viết vừa là sản phẩm vừa là phương tiện của chính họ.
Bởi vậy, chủ trương của Bác là nội dung của bài nói, bài viết phải có sức tác động đến người nghe, người đọc, nghĩa là phải có sức thuyết phục, "lọt tai quần chúng". Như trong bài viết ngắn chỉ có 130 từ đăng trên báo Nhân Dân ngày 23-9-1959, Bác viết thật dễ hiểu: "Làm mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế thì trước hết phải yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy, phải bền bỉ, chịu khó mới nuôi dạy được các cháu. Dạy trẻ cũng như trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt. Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu thành người tốt" (3).
Bác dùng thành ngữ đúng với hoàn cảnh giao tiếp nên đạt được mục đích của chiến lược giao tiếp là đả thông được tư tưởng cho đối tượng nghe (ở đây là giáo viên phổ thông): "Bác nghe nói một số giáo viên phàn nàn là không được chính quyền địa phương coi trọng. Người ta có câu: "Hữu xạ tự nhiên hương". Giáo viên chưa được coi trọng là vì chưa có hương, còn xa rời quần chúng. Có nhiều giáo viên được quần chúng coi trọng, như chiến sĩ thi đua, giáo viên bình dân học vụ, họ cùng với nhân dân kết thành một khối nên được quần chúng yêu mến" (4).
Gần mười năm sau, ngày 29-6-1963, cũng trên báo Nhân Dân, Bác dùng lại thành ngữ này, nhưng cách giải thích lại phù hợp với hoàn cảnh giao tiếp và vì thế mang tính thời sự: "Bọn trùm đế quốc như tổng Ken đều là: "Khẩu Phật tâm xà; miệng là Bồ tát, bụng là Xatăng!".
Có thể nói, trong việc sử dụng từ ngữ và thành ngữ, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất có ý thức chuyển đạt thông tin đến người tiếp nhận (người nghe, người đọc) và luôn quan tâm đến sự lắng nghe của người cùng giao tiếp. Yếu tố này hầu như thường trực trong tiềm thức của Người, khiến những phát ngôn Người nói ra rất sinh động và gây được tác động đến người tiếp nhận thông báo.
Không phải là không có lý do khi GS Phạm Huy Thông, một người thông hiểu tiếng Pháp và văn hóa Pháp, đã đánh giá rất chuẩn xác rằng văn của Nguyễn Ái Quốc khi Người hoạt động trên đất Pháp những năm 20 của thế kỷ trước là "Văn Pháp (của Nguyễn Ái Quốc) rất Pháp" (Tạp chí Ngôn ngữ, số 2-1986). Ðiều này cho thấy Chủ tịch Hồ Chí Minh ngay từ thời còn trẻ đã rất chú ý đến hiệu quả của giao tiếp và việc gây tác động đến đối tượng tiếp nhận thông báo (ở đây là người bản ngữ Pháp).
Về nước, sống trong lòng Tổ quốc và đồng bào, Bác đặc biệt chú ý đến cách hành văn sao cho dễ hiểu, dễ nhớ và dùng thành ngữ sao cho đắc địa nhất, bởi một từ ngữ, một thành ngữ được dùng đúng chỗ có thể thay thế cho một câu, thậm chí cho cả một đoạn câu. Ví như câu Bác nói tại lớp học chính trị của giáo viên cấp II, cấp III toàn miền bắc ngày 13-9-1958: "Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người".
Ðến nay câu nói nổi tiếng của Bác vẫn giữ nguyên giá trị thời sự đối với việc chấn hưng nền giáo dục nước nhà. Trồng người ở đây được dùng như một cụm từ mang tính thành ngữ cao, được Chủ tịch Hồ Chí Minh kết hợp tài tình tạo nên một cụm từ gồm động từ trồng với nghĩa "vun xới, chăm sóc, giáo dục" kết hợp với danh từ người là đối tượng được chăm sóc giáo dục với nghĩa tổng quát "toàn thể mọi người trong xã hội".
Trong việc sử dụng thành ngữ của dân tộc cũng như trong việc sáng tạo lại thành ngữ cho dễ hiểu hơn, phù hợp hơn với hoàn cảnh giao tiếp cụ thể, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một mẫu mực dùng chuẩn xác thành ngữ trong giao tiếp và ứng xử. Rõ ràng ở Người thể hiện đậm nét ngữ cảm của người Á Ðông về triết lý âm dương. Tình huống hài hòa, chuyển hóa cho nhau của hai yếu tố này hầu như có mặt trong nhiều thành ngữ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh sử dụng trong giao tiếp, trong các bài viết, bài nói của Người.
Chẳng hạn, thành ngữ Nhìn thấy tận mắt, nghe thấy tận tai được Chủ tịch Hồ Chí Minh tạo ra từ thành ngữ dân gian Tai nghe mắt thấy; hoặc "To" gan như cáy (HCM) được tạo ra từ thành ngữ dân gian Nhát như cáy.
Cùng với ngữ cảm trên, Người đã sáng tạo ra những thành ngữ mới diễn tả những hiện tượng khách quan mới nảy sinh: Ông cụ non, quan cách mạng, gõ đầu trẻ kiếm cơm, các cô tú cậu tú, đạp vỏ dưa tránh vỏ dừa, buôn dân bán nước, măng mọc quá tre (trứng khôn hơn vịt) vắt cam vứt xác, chết thì chết nết không chừa (đánh chết cái nết không chừa), mặc áo gấm đi đêm, dùng người như dùng gỗ, ông tướng bà tướng, chiếm của công làm của tư, v.v...
Nguyễn Văn Tu (1982) đã có nhận xét tinh tế rằng, từ mẹ được Bác dùng với nghĩa là quan trọng nhất như: "Bây giờ còn một điểm rất quan trọng, cũng là điểm mẹ. Ðiểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt: đó là đoàn kết". Trong câu này Bác còn dùng từ con cháu song song với từ mẹ cho cân đối. Con cháu ở đây cũng có nghĩa mới" (5).
Sự vận dụng sáng tạo từ ngữ, thành ngữ tiếng Việt trong các bài viết, bài nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh phản ánh một điều quan trọng là, chiến lược giao tiếp ngôn ngữ hướng đến người tiếp nhận là mục đích của chủ thể nhằm chuyển đạt những thông tin có mục đích của mình. Ðạt được điều này không phải đơn giản mà phải có quá trình trau dồi, rèn luyện năng lực ngôn ngữ của mỗi người trong việc giữ gìn, bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt giàu đẹp về hình ảnh và ngôn từ thể hiện.
Những lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách viết đến nay vẫn giữ nguyên ý nghĩa thời sự của nó. Ðây là bài học bổ ích không chỉ đối với các nhà báo, phóng viên, diễn giả mà cả đối với đội ngũ giáo viên khi đứng trên bục giảng truyền thụ kiến thức cho học sinh, sinh viên.
------------------------
(1) Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Tr 119, tập 7. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
(2) Hồ Chí Minh toàn tập T9, Tr 250. Nxb Chính trị Quốc gia, 1996.
(3) Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Tr 509, tập 9. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
(4) Hồ Chí Minh toàn tập (2000), Tr 493, tập 9. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
(5) Nguyễn Văn Tu (1982). Một số vấn đề về ngôn ngữ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. ÐH THHN, Hà Nội.