Dòng nước ấy len lỏi giữa bạt ngàn đá núi, hấp thụ biết bao nhiêu thảm lá rụng xanh đen diệp lục của núi rừng Tây Bắc để rồi mang trong lòng nước một mầu xanh thẳm biếc tựa như con trăn gió trườn về với biển. Ở giữa núi cao và mây mù, Si Ma Cai được ví như thiên đường thứ hai của đá, sau Sa Pa. Với độ cao hơn 1.500m so với mặt nước biển, quanh năm mây phủ và hanh heo gió lạnh, trên những triền đá cao rợn ngợp rộn ràng sắc mầu thổ cẩm, đứng trên đất Si Ma Cai, người ta sẽ có cảm giác như đứng trên một biển đá mà ở đó những dải mây quấn quýt là những bọt sóng dâng trào.
Tên gọi của vùng đất này có từ lâu đời. Từ cái thủa những cư dân đầu tiên của các tộc người Mông, Dao dắt díu nhau từ hàng trăm năm trước. Khi ấy, ngựa là phương tiện giao thông duy nhất trên vùng đất mà các con đường nối từ bản này sang bản khác chỉ bé như sợi dây rừng. Từ bản này qua bản khác, nếu không đi bằng đôi chân vốn đã quen đi đường trường thì chỉ có thể đi bằng ngựa. Muốn đem bắp, đậu, rau xuống chợ thì cũng chẳng còn cách nào khác ngoài cái lưng ngựa và lưng người. Có lẽ vì thế mà cách lý giải rằng: Si Ma Cai là lối đọc chệch của từ Sín Mà Cái theo tiếng Mông được xem là hợp lý hơn cả. Sín là mới hoặc vùng đất mới, còn Mà Cái có nghĩa là chợ bán ngựa. Ghép nghĩa lại thì tên của cái huyện miền núi mới thành lập chưa đầy mười năm, nằm trong danh sách những huyện nghèo nhất cả nước này có một ý nghĩa thật thú vị: Vùng đất mới có chợ bán ngựa!
Những cụ già thường ngồi nhai lá thuốc trước cửa nhà nơi phố huyện Si Ma Cai kể rằng, trước đây, chợ ngựa họp trong khu huyện lỵ Si Ma Cai hiện nay, sau tách ra thành hai. Thanh niên đi chợ chọn ngựa kỹ như đi chọn vợ vậy. Bởi, ngựa không chỉ là vật cưỡi và thồ hàng. Ngựa còn dùng để đua trong mỗi đận hoa đào nở. Ngựa cũng là thứ thể hiện cái tráng chí của chủ nó nữa. Ấy là chuyện xưa, còn bây giờ, cái xe máy chạy bằng xăng được bọn trai tráng ưa thích hơn cả. Do thế, ngựa không còn là phương tiện giao thông chủ yếu của đồng bào nữa, cho nên chợ ngựa họp khi được khi chăng. Hiện nay, hầu hết việc mua bán, trao đổi ngựa hay trâu bò đều được đưa về chợ trâu ngựa Cán Cấu.
Trong không gian còn đẫm vị nguyên sơ của núi rừng Tây Bắc, nếu ai đã một lần bước chân vào khu chợ có ý nghĩa rất lớn đối với đời sống của đồng bào các dân tộc huyện Si Ma Cai nơi đây, sẽ thấy nét văn hóa thật thô nháp nhưng cũng hết sức đáng yêu của người vùng cao. Sự khoáng đạt dậy lên từ men rượu ngô mới cất, từ cái mũ nồi đội nghiêng, con dao quắm dắt ngang lưng của mấy anh chàng người Mông. Chợ họp trên bãi đất trống, người và trâu bò, ngựa chen nhau, nồng nả một mùi hăng hắc của cỏ cây, hoi hoi hôi của trâu, của ngựa...
Chợ trâu ngựa Cán Cấu là nơi bà con xuống núi gặp nhau, bán con trâu, con bò mà họ đã nuôi được qua nhiều vụ bắp. Dáng ngựa của vùng Si Ma Cai này đa phần đều nhỏ, chân cao, nhưng cái sự nhỏ ấy có nguyên do bởi chúng đã từng là những con vật số một trên bao dốc núi mây bay. Chỉ với cái dáng nhỏ thon nhưng chứa đựng một sức lực lạ kỳ như thế, chúng mới đủ sức thồ hàng, cõng chủ lên đến những đỉnh núi xa nhất.
Ngựa là vậy, nhưng còn những chú trâu đứng gại sừng vào bờ đá lại khác. Chúng vạm vỡ và hiền hậu. So với trâu miền xuôi, các chú chàng này không hề thua kém những đồng nghiệp của mình về tài cày ruộng. Những thửa ruộng bậc thang chưa đầy ba bước chân, lẫn đá núi được các chú sửu hiền lành này cày bừa thật ngấu. Chúng được nuôi bằng thân ngô và một loại cỏ mới có tên tiếng Anh mà bà con đọc theo cách của mình là cỏ voi do ngành nông nghiệp phát giống. Có loại cỏ này, bà con cũng đỡ vất vả phần nào trong việc tìm nguồn thức ăn cho trâu ngựa.
Trâu ngựa đem đến chợ, phần là để bán, phần khác cũng là mượn cớ phiên chợ để anh em gặp nhau, uống chén rượu nên thoạt kỳ thủy, việc mua bán không còn là mục đích chính nữa. Người gặp bạn thì trâu ngựa cũng gặp gỡ, giao hoan, tự tình. Chúng tiến sát gần nhau, nghiêng ngó hít ngửi nhận mặt rồi dụi mũi, dụi tai vào nhau mà âu yếm bằng những tiếng ò... ọ... khe khẽ. Vui mắt nhất là những anh chàng đi bán ngựa đã có một sáng kiến rất xứng tầm tiếp thị là viết tên mình bằng sơn hoặc vôi lên mông trâu, ngựa rồi điềm nhiên bỏ đó mà ngất ngưởng vào quán. Ai muốn mua thì cứ việc nhìn tên trên mông ngựa mà réo ầm lên, khắc sẽ có một anh chàng nào đó cầm chén rượu bước ra mời. Uống cạn ly rượu rồi mới bắt đầu ngã giá. Anh chàng Giàng Láo Lở viết chữ Lở to tướng bằng sơn đỏ trên mông chú ngựa của mình, cười khì khì bảo: Nhiều phiên chợ rồi, em nghiệm ra là viết sơn đỏ trên mông trâu ngựa bán đắt hàng lắm, chả mấy khi phải dắt ngựa về. Có con trâu mộng mệt mỏi "ế ẩm" ở góc chợ kia cũng đang nằm trệu trạo nhai lại. Trên mông trâu viết chữ bằng vôi nguệch ngoạc: "Lỳ Chỉn Chúng". Có người lái trâu miền xuôi lên, cứ nắm sừng con trâu có chữ "Khưa" mà gân cổ gọi mà không biết rằng, chủ ngựa đang nằm ngủ bên đống cỏ khô ở cạnh quán chân giò lợn thui rơm uống với rượu ngô hạ thổ của Bản Phố.
Trước đây, khi mọi con đường đi tới các bản làng, những cung đường tuần tra biên giới không thể đi bằng phương tiện gì khác ngoài ngựa, thì những người lính biên phòng thuộc đồn Biên phòng Si Ma Cai vẫn thường ra chợ ngựa để tìm mua những con ngựa khỏe leo núi nhất và dai sức nhất. Chú ngựa đó sẽ được huấn luyện để có thể đưa các anh đi thật nhanh trong những chuyến cắt rừng đuổi theo bọn tội phạm. Ngày nay, ngựa không còn được sử dụng nhiều trong các đồn biên phòng nhưng hình ảnh người chiến sĩ mang quân hàm xanh đội mũ mềm kiêu hãnh trên lưng ngựa, ngựa tung vó phi nước đại trong mây trắng bồng bềnh vẫn là một hình ảnh đẹp như bài thơ biên tái. Những người lính trẻ này vẫn thường đến chợ trâu Cán Cấu, thử cưỡi những chú ngựa vạm vỡ, dũng mãnh hí tung bờm để cảm nhận sự gian nan mà rất đỗi tự hào của những thế hệ cha anh đi trước, cái thời như trong thơ của Lương Sỹ Cầm: "Dừng chân bên suối trưa tuần tiễu. Vục nước trong lành đầy ống bương. Lửa nhóm giữa rừng chưa ấm ngọn. Ðã nghe ngựa hí giục bên đường".
Cuối chợ, những chú trâu, ngựa béo mầm được ngã giá thuận mua vừa bán được trao cương vào tay chủ mới. Những con trâu, con ngựa không có người mua lại được chủ đóng cương để chuẩn bị trở về. Ấy vậy mà không thấy ai buồn. Họ nhìn nhau hỉ hả, mùi rượu ngô và thắng cố vẫn còn nồng trong hơi thở. Rồi thì lần lượt từng tốp ra roi, giục ngựa, dắt trâu rời chợ và tỏa về nhiều hướng. "Trúa thien khuấy lái" - đó là lời họ hẹn nhau tới phiên chợ sau gặp lại.
TUỆ LÂM