"Ôn cố, tri tân", ông kể cho chúng tôi nghe về chiến thắng Bồ Bồ, chiến công vang dội nhất của quân dân Quảng Nam - Đà Nẵng trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống quân xâm lược Pháp.
Lịch sử từng ghi, đó là chiến công chia lửa, phối hợp với Điện Biên Phủ. Hơn thế, còn là đòn sấm sét cuối cùng, dập tắt mọi ý đồ của địch định gỡ gạc chút ít lợi thế trên bàn đàm phán; buộc thực dân Pháp phải ký ngay Hiệp định Giơ-ne-vơ vào ngày 20-7-1954.
..."Hồi đó, tôi là chiến sĩ trẻ nhất trong đơn vị - đồng chí Lê Hải Lý bồi hồi nhớ lại. “Tuổi trẻ, giàu nhiệt huyết yêu nước, tin tưởng sâu sắc vào Đảng, Bác Hồ và luôn nghĩ Quân đội ta sẽ thắng, nên tôi hăng say chiến đấu lắm. Đương nhiên không hề quản ngại gian khổ, hy sinh. Được biên chế vào khẩu đội cối 81, thuộc Đại đội Trợ chiến 22 của tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, tôi cũng như nhiều chiến sĩ khác mừng rơn. Bởi chúng tôi được liên tục cơ động, liên tục hỗ trợ các đơn vị bộ binh đánh địch, góp phần mở rộng vùng tự do ở Quảng Nam - Đà Nẵng và Liên khu 5...".
Tôi hỏi: "Thế đơn vị chú làm gì khi quân ta đang tấn công địch ở chiến trường chính Điện Biên Phủ ?". Ông cười độ lượng: "Chia lửa, giam chân địch, phân tán bớt lực lượng của chúng. Suốt Thu - Đông 1953 và đầu năm 1954, đơn vị chúng tôi chủ động tiêu hao sinh lực địch ở miền tây Quảng Nam, đánh rát vào vùng Duy Xuyên, Nông Sơn, đôi khi thọc sâu xuống vùng Điện Bàn. Thế trận của địch rối loạn, chúng đành phải dàn mỏng lực lực lượng ra đối phó với ta. Lực lượng của chúng bị ta tiêu hao từng ngày. Đặc biệt, lực lượng cơ động, vốn được xem là thiện chiến của chúng tỏ ra rất lúng túng, bị động; không thể nào chi viện nổi cho tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ".
Ngừng một lát, vị đại tá già kể tiếp: Sau khi đã đại bại ở Điện Biên Phủ, bọn chỉ huy quân xâm lược Pháp ở miền trung vẫn còn nuôi ảo tưởng, với ý đồ cố kéo dài chiến sự, gắng gỏi lấn chiếm vùng tự do của ta ở Liên khu 5, lấy đó làm "sức nặng", giúp quan thầy của chúng có thể mặc cả trên bàn đàm phán Giơ-ne-vơ. Vì thế, giữa tháng 7-1954, bọn chỉ huy Pháp gom quân từ nhiều nơi về Đà Nẵng, lập Chiến đoàn Cơ động số 10 (gọi tắt là GM-10). Ngay sau đó, chúng huy động khoảng 1.200 quân, thực hiện chiến dịch "Hành quân Con báo ", cố chiếm lấy cao điểm Bồ Bồ của ta (nay là mấy quả núi thuộc xã Điện Tiến), nhằm khống chế vùng phía tây huyện Điện Bàn, lấy đó làm "bàn đạp", đánh nống ra vùng tiếp giáp...
Sáng ngày 16-7-1954, địch bắt đầu thực hiện kế hoạch. Sau khi dùng pháo bắn dọn đường, từ Đà Nẵng, chúng chia làm hai mũi, tiến quân theo thế "gọng kìm ", vừa men theo đường sắt, vừa thận trọng đi trên đường quốc lộ số 1, hướng về phía Bồ Bồ. Nhưng, vừa ra khỏi căn cứ, quân địch đã thương vong rải rác, do bị dân quân, du kích ta chặn đánh bằng mìn và bắn tỉa. Lò dò mãi, dù quãng đường không xa, mãi đến gần tối cùng ngày, chúng mới đến được Bồ Bồ. Lúc bấy giờ ta đã bỏ trống. Chúng hăm hở triển khai đội hình, chiếm các điểm cao lợi thế, đào gấp công sự. Cách bố trí đội hình của địch là phòng ngự kiểu "con nhím", giao thông hào và công sự kiên cố nhiều tầng, thêm một đại đội pháo tại cao điểm Giồng Ngang sẵn sàng bắn chi viện, nếu bị tấn công. Chúng còn nham hiểm buộc bọn Việt gian canh giữ thêm và dò la tin tức từ vòng ngoài.
Với phương châm "Hành động khẩn trương, đánh nhanh, diệt gọn" và " ra đòn chí mạng, dập tắt sớm nhất mọi ý đồ đen tối của địch ", quân và dân ta tại Quảng Nam - Đà Nẵng đã hạ quyết tâm tiêu diệt ngay cứ điểm Bồ Bồ trong đêm 17 rạng ngày 18-7-1954.
Lực lượng của chúng ta, gồm có Tiểu đoàn 20 (với ba đại đội 203,204,206); Đại đội Trợ chiến 22 ; một phân đội đặc công; hai đại đội bộ binh hỗn hợp (Đại đội 64 độc lập và Đại đội 61 huyện Điện Bàn ). Còn có hơn 500 du kích, khoảng 650 dân công thuộc các xã Điện Hồng, Điện Tiến, Điện Quang, Điện Hòa , Điện An... cùng tham gia trận đánh.
Khoảng 23 giờ ngày 17-7, từ vị trí tập kết, các mũi tấn công chủ yếu của ta đã nhanh chóng tiềm nhập, "lót gọn" vào bên trong cứ điểm Bồ Bồ. Có mũi chỉ cách lô cốt địch chừng 40 mét mà địch vẫn chẳng hay biết gì. Đúng 0 giờ 30 phút ngày 18-7, tiểu đoàn trưởng Lê Văn Bàng phát lệnh, nổ súng tấn công. Khẩu đội cối 81 và SKZ của chúng tôi - mắt người Anh hùng bừng sáng khi kể - lập tức giã ngay hỏa lực vào trận địa địch. Bắn liên tục, xối xả. Vì quá bất ngờ, chúng không kịp phản ứng, hoảng loạn kêu gào thất thanh. Mười phút sau, đúng theo hợp đồng tác chiến, chúng tôi cho hỏa lực của ta chuyển làn... Khắp trận địa Bồ Bồ tiếng reo diệt địch vang động như sấm rền, các mũi xung kích nhất loạt xung phong, đánh thọc sâu, chia cắt, tiêu diệt nhanh từng ổ, nhóm đề kháng của địch.
Địch hoảng loạn thật khó tả, nháo nhào bỏ chạy ra cả ngoài công sự. Nhiều tên "sốc" quá, lao cả vào biển lửa xe tăng, xe bọc thép, ô-tô, nhà bạt, các thùng nhiên liệu đang ngùn ngụt cháy. Đội quân "nhà nghề" ấy hoảng loạn là phải, bởi quân ta đã giã nát Tổng đài Thông tin của chúng ngay từ những loạt đạn đầu. Chúng không gọi được pháo chi viện, nên càng bấn loạn...
Song, ở hướng nam, địch vẫn ngoan cố chống cự quyết liệt. Hai chiếc xe tăng của địch gầm rú phản kích. Đám tàn quân địch bám theo, gây cho bộ đội ta nhiều thương vong. Thế trận dễ chuyển hóa sang thế giằng co. Đúng lúc đó, đồng chí Lâm Cam, trung đội trưởng đã mưu trí, dũng cảm tiếp cận một xe tăng địch, dùng thủ pháo đánh đứt xích chiếc xe tăng đó. Trung đội cối 81 bắn cấp tập, tiêu diệt luôn chiếc xe tăng còn lại. Nhiều lô cốt, hỏa điểm địch ngoan cố chống cự cũng bị SKZ và súng bắn thẳng của bộ đội ta tiêu diệt.
Cả trung đội thuộc Đại đội 26, do đồng chí Lâm Cam dẫn đầu nhất loạt xông lên. Địch hoảng sợ, bỏ chạy tán loạn. Dù lúc đó đã hết đạn mang theo, nhưng chúng tôi đã lấy ngay những quả đạn cối của địch vừa bỏ chạy, nạp ngay vào súng của ta, bắn thẳng vào đội hình địch. Tiếp đó, chuyển làn sang hướng tây, hỗ trợ Đại đội 203 nhanh chóng đánh chiếm được khu vực Giồng Lạc.
Tuy vậy, ở hướng tấn công chủ yếu, hướng Tây - Bắc, bộ đội ta lại gặp khó khăn. Địch điên cuồng kháng cự. Đại đội 204 của ta khựng lại, giành giật với địch từng tấc đất, không phát triển được về tốc độ tấn công. Tiểu đoàn trưởng Lê Văn Bàng buộc phải điều gấp đội dự bị lên tham gia chiến đấu. Đồng chí Bàng lao qua nhiều mũi tấn công, trực tiếp vừa đánh địch, vừa đốc thúc cán bộ, chiến sĩ. Người tiểu đoàn trưởng dũng cảm ấy hô to:" Đánh thẳng ngay vào Trung tâm chỉ huy của chúng! Ai là đảng viên, hãy theo tôi xung phong!". Quân ta, theo gương anh, ào lên tấn công... Mấy phút sau, người tiểu đoàn trưởng kiên cường Lê Văn Bàng đã ngã xuống, sát trước giờ chiến thắng.
Đến khoảng ba giờ sáng ngày 18-7, bộ đội ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Cả chiến đoàn tinh nhuệ cơ động số 10 của địch bị đánh tan tác. Ta tiêu diệt và bắt sống hơn 700 tên xâm lược. Lý thú hơn, cũng tương tự như ở trận Điện Biên Phủ, trong Chiến thắng Bồ Bồ ta còn bắt được tên Đại tá Com-mi-lét- ti Phe-lít, chỉ huy trưởng cuộc hành quân làm tù binh.
Đang nghe háo hức, đúng lúc ấy, nhà Đại tá Lê Hải Lý có khách. Hàn huyên vài câu, được biết thêm, người đàn ông mới đến cũng từng tham gia đánh địch trong trận Bồ Bồ năm xưa. Khác chăng, ông là du kích xã Điện Tiến, địa bàn có cứ điểm Bồ Bồ. Tặng gia đình Đại tá Hải Lý cặp gà béo núc, ông vừa phân trần: "Chớ, đều là anh em, đồng chí cả thôi... Một con gà to ăn mừng chiến thắng to là Điện Biên Phủ. Còn con ni, kha khá, ta ăn mừng chiến thắng Bồ Bồ năm nớ hí...".
Cả ba chúng tôi cùng cười vui. Hỏi tên, ông đáp: "Đánh giặc là chuyện của toàn dân. Tên với tuổi mà mần chi? Thêm phức tạp quá rứa ? Tau mần nông, cứ gọi ông Năm Già là đủ".
Hai ngày sau Chiến thắng Bồ Bồ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết. Hiệp định ấy đã mang lại hòa bình cho bán đảo Đông Dương và khẳng định chiến thắng to lớn của quân, dân ta sau chín năm kháng chiến kiên cường, trường kỳ chống thực dân Pháp xâm lược. Đó là điều thế giới từng biết. Song, có một mốc son khác cũng nên lưu tâm thêm. Đến nay, dẫu đã 60 năm trôi qua, cần ghi nhận rằng, Chiến thắng Bồ Bồ là một chiến công lớn, tuy mang tầm vóc địa phương, nhưng có ý nghĩa lịch sử rất đặc sắc, sát trước ngày ký Hiệp định Giơ-ne-vơ.