Chiếc vòng bạc hình đôi chim noộc phầy


Tôi ngồi xuống bãi ngô ven sông, mải mê nhìn dòng nước lôi nhau trôi qua ghềnh đá, lắng nghe xem chúng có gì vui mà năm này qua năm khác, ngày nối ngày trôi đi, vẫn miên man cất lên những tiếng mơ hồ, rì rầm, mênh mang. Chiều đã kéo bóng xuống sông, nắng chưa tắt hẳn, hãy còn vài giọt bấu víu trên những ngọn cây lau, cây chít. Bên kia sông, một dải nước lấp loáng vàng chạy dài xuống bãi ngô đang rập rờn chuyển động theo ngọn gió chiều. Trong khi phía bên này, chỗ tôi ngồi, dòng sông đã sẫm mầu hoàng hôn. Những con cò lửa kêu rít gọi bầy rồi vội vã sải cánh cắt gió bay về rừng trước khi bóng tối đổ ập xuống. Xa xa vọng lại tiếng gà gáy như lời than vãn.

Tôi ngó trân trân về phía bên kia bờ sông, ngồi im như hóa thân vào trăm ngàn tảng đá mồ côi đứng ngồi lổm ngổm rải rác khắp bãi ngô, để rồi khi nắng đã tắt hẳn, dòng sông chuyển sang mầu tím sẫm thì tôi lẫn vào ngàn ngàn sóng ngô cùng những bụi cây xùm xòa, rậm rạp. Tôi ngồi đây, mặc dòng suy tư theo con nước dưới sông chảy đến vô cùng, vô tận cho tới lúc nghe tiếng gọi ời ời của mế mới uể oải đứng lên. Mế nén tiếng thở dài, trách tôi:

- Sang à, mày về sao không lên nhà đã vội vã ra bãi sông làm gì?

Tôi ôm chầm lấy mế, dụi đầu vào ngực mế, hít lấy hít để mùi mồ hôi chua chua mằn mặn của mế rồi thốt lên:

- Con trốn mế, đợi mế gọi mà.

Mế cười:

- Dà, con này chân đi xa, lưỡi dài ra làm dịu cái bực trong bụng người khác.

Mắt tôi đột nhiên nhòa đi. Tôi cầm tay mế leo dốc lên nhà. Ngôi nhà sàn già nua nhỏ nhoi với chín bậc cầu thang kia đã nâng dìu bước đi chập chững đầu đời, để rồi tôi tự bước bằng chính đôi chân mình vào cuộc đời dông gió. Mỗi khi nhớ mế, tôi lại hình dung ra những bậc cầu thang gỗ ăn hơi người mòn vẹt, nhẵn bóng đang chờ đợi tôi trở về. Bước chân mế chậm chạp, tay mế rung nhẹ trong tay tôi. Tôi luýnh quýnh thảng thốt:

- Mế, mế à, con lo quá thôi. Mế không còn khỏe nữa.

- Lo gì chứ? Đã có con cháu ông bác lo rồi. Mế có làm sao thì mày về chỉ nhìn thấy nấm đất thôi.

Tôi chợt cắn chặt môi. Tự dưng như có cơn gió lùa hun hút, vật vã trong lồng ngực, muốn thở hắt ngược trở ra mà sao khó quá.

*       *

Tuổi thơ tôi gắn liền với khúc sông trước cửa nhà. Tôi hay nằm xoài trên bờ đá, áp tai xuống nghe tiếng nước chảy âm thầm trong lòng đất. Tôi cũng thỏa thích đuổi bắt lũ chuồn chuồn dọc triền sông. Nhiều hôm, tôi lăn xả vào giữa bãi ngô, tha hồ ngắm nghía những trái ngô non nhinh nhính bằng chuôi dao, đầu tết những bím râu tơ hồng đang lao ra khỏi thân ngô đốt khúc tròn trĩnh, mập mạp. Nhưng, tôi thích nhất là được ngâm mình dưới dòng nước mát lạnh, thỏa thuê ngụp lặn, vùng vẫy bơi lội, để rồi chiều chiều mò mẫm những viên đá cuội đủ hình thù kỳ dị, lạc ra từ trong câu chuyện thần thoại mế vẫn kể. Tôi là chúa hay nghĩ ra các trò nghịch ngợm, tai quái để thu hút lũ trẻ trong bản. Có lẽ vì thế mà người già trong bản bảo tôi giống con trai. Nhiều lúc tôi chợt nghĩ, giá tôi là con trai thì mế tôi không khổ như thế.

Khi tôi nhận thức được cuộc sống đang trôi là vòng luân hồi chuyển động, cái cũ qua đi để cái mới hồi sinh, cũng là lúc tôi biết gia đình tôi chỉ có hai mế con. Tôi nhận ra sự thiếu vắng bóng đàn ông ở ngay trong ngôi nhà của mình. Cái "lìn" đựng nước bị vỡ một miếng vẫn phải dùng vì không có ai thay. Máng dẫn nước từ đầu nguồn về cây đỡ xiêu vẹo, tạm bợ. Cái chuồng ngựa xộc xệch tưởng chừng một cơn gió chạy qua là đổ ụp xuống... Trong nhà đã khổ rồi, nhưng đối với người cùng họ hay người bản cái khổ mế tôi cõng trên người dường như nặng gấp trăm ngàn lần. Những lúc có việc lớn, họp họ, đàn bà con gái chỉ quanh quẩn lo bếp núc, bát đĩa, nước nôi. Đàn ông bảo sao nghe thế, không thuận tai, không ưng bụng cũng không được tham gia. Tôi biết mế con tôi cái gì cũng phải chịu thua kém người trong họ, ngoài bản. Mế thường dạy tôi: "Nhịn một, lành mười con à".

Tiết trời đã cuối thu, ngày co ngắn lại, đêm trượt dài ra mang theo hơi núi lành lạnh. Tôi đón bắp ngô nướng nóng rẫy mầu mật mía từ tay mế, miệng xuýt xoa khe khẽ, mùi thơm ngầy ngậy của sữa ngô non lan tỏa ngạt ngào, làm cho ngôi  nhà chợt trở nên ấm áp. Mế chằm chặp nhìn tôi, dường như mế muốn thu bóng hình tôi vào đôi mắt héo hon của mình. Tôi lặng lẽ tận hưởng sự âu yếm trong cái nhìn vị tha của mế mà thấy bồn chồn như có trăm ngàn viên than đỏ đang cháy rừng rực trong bụng. Mế thủng thẳng bảo tôi:

- Sang à, dưới phố xá làm mày thay đổi nhiều rồi. Đàn bà con gái cắt tóc ngắn không tốt đâu.

Miếng ngô chợt nghẹn ứ trong cổ, tôi lắc đầu:

- Mế! Ở dưới ấy dùng nước máy, con gội đầu tóc rít lại gỡ không nổi, tiếc lắm, nhưng phải cắt thôi.

- Nước máy là nước gì? Có giống nước bản mình không?

- Nước máy là nước sông, nước núi chảy ra cả thôi nhưng được lọc khử trùng.

- Ầy! Thế thì "hiện tại" quá, chẳng trách mày muốn ở dưới đấy mãi, không muốn về nhà nữa. Mày quên luôn mặc áo vải chàm rồi.

Ánh mắt mế nhìn tôi như trách móc.

Tôi đã xa ngôi nhà của mình mấy mùa ngô rồi. Xa lâu đến nỗi, lúc tôi về trên gác bếp, dưới gầm cầu thang ngô đu vít chật cứng, không còn chỗ nào hở nữa, mế phải để ngô lại ngoài chòi canh.

Biết mấy mùa ngô đến, ngô tàn là ngần ấy mùa mế bẻ bắp non, chờ đợi tôi trở về. Mà cũng không hẳn như thế. Mế đã làm cái việc bẻ bắp non mấy chục năm rồi. Cứ nhìn hai cái thạ đựng đầy bắp non héo quắt kia thì biết. Mỗi mùa bắp, mế lựa một cái bắp non tròn trịa, hạt đều tăm tắp, cho vào bếp nướng vàng, rồi lặng lẽ đặt lên bàn thờ, quỳ ở đó rất lâu, miệng lẩm bẩm như trò chuyện. Cái bắp ngô để trên bàn thờ mãi đến mùa ngô non năm sau trên mình nó phủ mầu xanh mế mới mang xuống, để vào chiếc thạ ở góc bếp, rồi bẻ bắp non khác để lên bàn thờ. Mùa bắp này, qua mùa bắp khác, đôi thạ đựng đầy bắp non khô, hút hơi bồ hóng đen óng như tóc người con gái, cao dần lên.

Mế bảo tôi giống cha, thích ăn bắp non nướng. Hồi tôi còn bé, mỗi lần nướng ngô, mế lại đưa con mắt đau đáu nhìn ra bờ sông. Không hiểu sao, lúc ấy chỉ một tiếng động nhẹ như tiếng cá quẫy, tiếng khua mái chèo thuyền độc mộc, cũng làm mế tôi bồn chồn đứng dậy, nhào ra cầu thang ngóng trông, đợi đón. Để rồi sau đó, mế lầm lũi đi ra sông, ngồi ở bãi đá đến nửa đêm mới về nhà, khẽ khàng nằm xuống, ôm chặt tôi vỗ về, thổn thức, nước mắt mế ướt đằm má tôi. Sáng hôm sau, tôi thấy da mế xanh xao giống mầu lá cây ngô, đôi mắt mế trũng sâu, mệt mỏi và ẩn chứa biết mấy nỗi buồn.

Quê tôi trồng cây ngô quanh năm, không theo thời vụ. Thường thì, năm nào cũng thế, sau lễ hội "loồng toồng", mưa phùn rắc bụi là mế tôi cùng người bản trồng ngô. Dưới lớp đất mịn màng mầu nâu cháy, hạt ngô nhỏ nhoi bén rễ, hé mắt đẩy cao lá mầm tin hin nhô lên khỏi mặt đất. Cây ngô bé bỏng ngậm sương, uống nước sông, tắm nắng, dần dần xanh mướt mát, theo bước chân người chạy từ bờ sông, trườn qua lớp lớp ruộng bậc thang, bò dần lên sườn núi Phạ Đeng làm thành triền ngô rộng mênh mang. Tuy là đứa trẻ nghĩ ra đủ các trò lêu têu, nghịch ngợm nhưng tôi không đủ can đảm để một mình len lỏi giữa những thân cây mập mạp, hiền lành ấy.

Người trong bản nhận ra bãi ngô nhà mình bằng cái chòi canh lợp cỏ tranh bàng bạc cao lênh khênh, ngật ngưỡng từ xa nhìn lại giống như những tổ chim. Chòi canh dùng làm nơi nghỉ trưa của người bản khi làm cỏ ngô và cũng là nơi canh chừng thú rừng, chim chóc lẻn về quấy phá. Dĩ nhiên, đêm đêm ra chòi canh gác là những thanh niên trai tráng hay đàn ông khỏe mạnh. Với mế con tôi thì đó là chuyện ngoại lệ. Người bản đã quen những buổi chiều nhập nhoạng mế dắt tôi, bước thấp, bước cao đặt chân lên những nấc thang gân guốc, xù xì leo lên chòi canh.

Đây là nơi tôi thích nhất.

Thường thì, vào lúc mế lụi cụi nhen bếp lửa trong góc chòi canh, tôi kiếm cớ lân la ra chái chòi, ve vuốt, áp mặt vào chiếc "tù và" đen nhức làm bằng sừng con trâu rừng và ngậm mồm, phồng má thổi hơi dài, để rồi từ các chòi canh trên bãi ngô rộng, đồng loạt nổi lên tiếng tù và, tiếng mõ, thanh la... nhất loạt nối nhau tạo lên chuỗi âm thanh ngân vang, bay bổng, vừa vội vã dội về lại như cuống quýt chạy ra xa. Lúc ấy, mế nhìn tôi, ánh mắt là lạ, vừa muốn trách mắng, lại như đang mỉm cười, mế bảo:

- Con gái, mày ngơi động chân, động tay một lúc có được không?

- Con gọi người bản tí thôi.

Mế chợt thở dài hun hút, tiếng mế trầm buồn như cõi xa lắc, mơ hồ vọng về:

- Cái tai người bản nghe không lọt tiếng mế con ta gọi đâu.

Tôi không biết vì sao mế nói thế. Mà tôi cũng không dám hỏi mế, tôi sợ mắt mế tôi lại đỏ lên, ướt nước. Lúc ấy, tôi nghĩ mế nói vậy không đúng, người bản nghe tiếng "tù và" của tôi cũng trả lời đấy thôi. Nghĩ thế, nhưng trong cái đầu dại khờ của tôi vẫn cháy lên câu hỏi này đến câu hỏi khác mà không biết hỏi ai.

Cho đến một đêm. Mế tôi ôm nằm trong chòi vắng, tôi nghe rõ gió đuổi nhau xào xạc, gió lan từ bãi ngô dồn xuống mặt sông, đập trên mặt nước ùm oạp... ùm oạp, như có hàng ngàn người đang đập trống. Tôi trườn ra khỏi vòng tay ôm ấp của mế, nghiêng đầu nhìn xuống bãi ngô. Lấp loáng dưới trăng sao là ngút ngàn những tàu ngô miên man, nghều ngào chuyển động. Trong sương đêm, bãi ngô óng lên màu ngân nhũ rực rỡ, huyền ảo. Đâu đây, rộn lên tiếng rỉ rả của bầy côn trùng lắm điều, tiếng bước chân sột soạt, dè chừng của thú rừng, tiếng "gù gù" khe khẽ của đôi gà rừng, ngày kiếm ăn giữa dòng ngô, đêm đến bay về đậu dưới gầm sàn lều canh của nhà tôi. Có vẻ như sẽ không có gì khuấy động không gian mê đắm, diệu kỳ của đất trời và khoảng yên tĩnh của mế con tôi, nếu như mế tôi không bâng quơ thả tiếng thở dài vào thinh không tĩnh lặng rồi vội vã kéo tôi vào lòng, đặt nụ hôn dài lên mớ tóc khét mùi nắng của tôi và nói dịu dàng:

- Con gái à, mế đưa mày sang Pú Lảy vào lớp cô giáo Phén học cái chữ cho đầu sáng ra.

Tôi ngúng nguẩy:

- Con không muốn đâu, một mình mế ở nhà cái bụng không vui.

- Không nghe mế không được. Cha mày cũng nghĩ như mế thôi.

Tiếng nói của mế chợt run lên trong đêm như âm thanh mơ hồ rồi chìm đi và tắt lịm trong im lặng.

Tôi ôm cổ mế thầm thì:

- Mế à, cha con cái chân đi đâu? Sao không nhớ lối về nhà?

Bất chợt, một giọt, hai giọt rồi cả dòng nước âm ấm kéo nhau tràn xuống mặt tôi. Tôi biết mế tôi lại khóc. Tôi cuống quýt giơ đôi tay bé nhỏ gạt nước mắt đang giàn giụa trên gương mặt buồn rượi của mế và run lên vì sợ hãi. Mế ôm chặt tôi, thổn thức nghẹn ngào:

- Cha con không bao giờ trở về được nữa rồi, cha đã mất con à.

Chân tay tôi bủn rủn, run bần bật rồi òa khóc nức nở.

Mế khóc, tôi khóc, hai mế con tôi thổn thức mãi không thôi.

Tiếng khóc ai oán của mế con tôi theo con gió chạy lên bầu trời, ngàn ông sao buồn bã trôi xuống lũng núi, cô trăng lặng lẽ giấu mình vào đám mây, nhỏ từng giọt nước ngắn dài xuống bãi ngô như muốn an ủi...

Đêm khuya, sương buông lành lạnh, bản ắng lặng quá, nghe rõ tiếng nước thở dưới lòng sông. Mế cời than cho thêm củi vào bếp. Mế hỏi tôi nghĩ gì mà thừ người ra để bắp ngô nguội ngắt thế? Hay không muốn ăn ngô nướng nữa? Ở phố quen rồi giờ về nhà thấy cái gì cũng không ngon không hợp?

Mắt tôi rưng rưng, tôi lặng lẽ lắc đầu. Mế nói thế không đúng, tôi mải nghĩ lung tung, trong đầu tôi như có đàn ong đang làm tổ. Lần này tôi về có việc muốn hỏi mế mà miệng tôi như có nhựa trám gắn lại không thể thốt ra lời. Tôi biết nói thế nào đây? Chuyện này lớn quá, vượt khỏi tầm nghĩ của tôi, không có mế, không lo nổi.

Lửa bếp chập chờn hắt sáng lên mế, lên khuôn mặt kín vết nhăn, lên mái tóc nhuộm màu đá vỡ. Nỗi sợ hãi bỗng từ đâu đổ ập vào người tôi. Tôi rất lo một ngày nào đó mế bỏ tôi ra đi xuống âm thế tìm cha. Mế vẫn nói với tôi, bao giờ tôi cứng cỏi, đứng vững bằng đôi chân của mình, như cái cây đủ lớn cắm rễ sâu xuống lòng đất thì mế sẽ yên bụng ra đi. Bất giác mắt tôi nhìn về nơi góc nhà, qua ánh lửa leo lét, khúc gỗ dẻ dường như lớn hơn rất nhiều. Mế tôi đã chuẩn bị sẵn cho sự ra đi của mình thế này ư? Lần trước tôi về khúc gỗ ấy chưa có ở trong nhà, thế mà bây giờ nó sừng sững hiện diện ở kia như trêu tức, như thách đố và như răn đe tôi. Thấy tôi chằm chặp nhìn khúc gỗ mế bảo:

- Sang à, mày lạ lắm phải không? Khúc gỗ này mế đổi một bò với hơn chục thạ ngô, để sẵn ở đấy thôi, cái đầu mày đừng có rối lên như búi mây.

Tôi trở nên lúng túng, cái tay, cái chân như thừa ra, miệng tôi lắp bắp:

- Mế, con... con

- Có chuyện gì nói đi, sao hôm nay mày lạ thế?

Thấy tôi im lặng, mế thở dài:

- Con gái có lứa có thì, cái cây to quá liệu có thằng con trai nào dám trèo không? Bao giờ mày đi về có hai người hả Sang?

Rốt cuộc tôi cũng phải nói ra cái điều khó nói:

- Con về lần này cũng vì chuyện này, mà cũng không hẳn thế, còn chuyện lớn hơn, chuyện về cha con mế à...

Mế giật mình, bắp ngô non trên tay mế rơi xuống than đỏ tỏa mùi khen khét. Sau giây phút thảng thốt, mế hỏi tôi dồn dập:

- Mày biết chuyện gì về ông ấy à? Ai nói cho nghe? Chuyện tốt hay chuyện dở?

Tôi vòng ra sau ôm chặt lưng mế. Ôi chao! Thời gian đã đẽo gọt, mài mòn mế tôi đến nỗi còn có da bọc xương. Dấu vết khắc nghiệt của tuổi tác đè nặng lên người mế không nấn ná, không buông tha. Tôi gục mặt vào lưng mế thầm ao ước nó thẳng ra, đừng có vồng lên mãi thế. Bất chợt, người tôi rung nhẹ trong tiếng thở dồn dập, hối hả, ngắt quãng như mế. Trước mắt tôi, hiện ra cái đêm, trăng trốn vào đám mây lặng lẽ nhỏ nước mắt xuống triền ngô.

Đêm ấy, mế tôi kể, giọng mế dịu dàng và cay đắng, ấm áp nhưng vời vợi day dứt, ăm ắp nhớ thương mà buồn mênh mang...

Năm đó, trên núi Phạ Đeng cây lê tách nụ hoa trắng núi. Khắp bản gần, bản xa, từ Nà Láy xuống Lũng Pưởn, từ Pạ Liềng sang Pú Ngải bừng sáng bởi màu hồng của ngút ngàn hoa đào đua nhau thắp sáng núi rừng, nhuộm thắm nước sông Thoong. Lũ gái bản uống nước sông nên đôi má chín đỏ. Tụi con trai nhìn theo con gái mãi không biết mỏi mắt. Ấy là lúc xuân về rồi đấy. Các bản nhộn nhịp mở hội "loồng toồng" để năm đó lúa ngô được mùa, nhà nhà thuận hòa, bản gần bản xa ở với nhau đầm ấm. Người ta rủ nhau đi hết hội bản này sang hội bản khác không biết mỏi chân. Sau hội "loồng toồng" mới trồng ngô, tra đỗ, vì thế chưa ai phải lo cả. Đông nhất là đám con trai, con gái. Con trai cắp theo cây sáo ở nách, có người còn ôm cả đàn tính đi hội. Con gái mang theo "quả còn" tua rua bảy sắc giấu trong tay nải.

Mế tôi cùng đám bạn gái ở Nà Láy hồ hởi, tíu tít rủ nhau đi hội từ lúc mặt trời chưa thức dậy, đến khi những dải nắng vượt qua lớp mây mù, xuyên chéo tán cây thì hội đã đông lắm rồi. Chẳng biết có phải tại ông "phạ" hay không mà quả còn của mế xé gió, vùn vụt chui tọt qua vòng tròn dán giấy đỏ lên cột còn cao chót vót kia, rồi nhẩn nha rơi trúng người con trai ở Pú Ngải. Đám con gái hò reo rầm rầm, còn tụi con trai mặt buồn như cái lá gặp nắng to. Giải thưởng hội còn năm nay được trao cho mế thì đúng quá rồi. Hạt ngô, hạt thóc trong bụng quả còn được thầy Pụt chia đều cho các bản về làm giống đấy thôi. Thế thì tụi con trai vì sao phải buồn? Hội còn nhiều trò hay lắm mà. Có gì phải lạ? Chúng nó tiếc cô gái đẹp nhất hội có đôi mắt đen dài, long lanh ướt như giọt rượu đầu đấy thôi. Người đâu mà đẹp thế? Tụi nó còn thầm ghen với người con trai Pú Ngải, đang say sưa cất lên tiếng sáo véo von, như tiếng hót của con chim họa mi chúa lông vàng trên núi Phạ Đeng. Tiếng sáo làm tụi con trai phải len lén giấu cây sáo của mình vào trong cạp quần, không dám trổ tài, khoe mẽ nữa.

Không hẹn hò, không vồ vập, tiếng sáo ấy nhẩn nha theo nụ cười của mế chảy tràn quanh nhà vào trúng mùa trăng lên. Lần nào cũng thế, nhắm mắt lại, mế vẫn hình dung ra con ngựa nâu có bộ lông óng mượt như tơ, cõng người con trai ấy trên lưng, hối hả phi nước đại vượt qua rừng non, rừng già, để trúng vào lúc trăng treo trên đỉnh núi thì tiếng sáo, tiếng đàn tính rộn ràng ngân lên lời yêu đắm say.

Cuối mùa trăng, tiếng sáo không còn réo rắt nữa, thay vào đó là tiếng đàn tính ngân nga, mềm mại. Lời đàn tính nói lên nhiều điều lắm. Từng nốt nhạc như lời thì thầm của chàng trai, rằng anh muốn cùng em ra bãi trỉa ngô, lên rừng hái măng, hái nấm, xuống sông bắt cá, mò cua đá trong hang, hồn anh chìm trong đôi mắt em rồi...

Tiếng đàn thắp lửa trong ngực mế. Và đêm ấy, trong ánh trăng thao thiết, mế trao vòng bạc hình đôi chim Noộc Phầy lên cổ người con trai Pú Ngải, nhận lời làm vợ, mang cây đàn tính về trình tổ tiên và thưa chuyện với ông ngoại.

Bà mất từ hồi mế nhỏ như tôi. Bác Nhân đi bộ đội mấy năm rồi, bây giờ có ông với mế ở nhà. Nghe mế nói chuyện, ông ngoại nhẩn nha:

- Thế thì tốt quá, nhà người ta ở xa, tao không thách cưới, gà lợn có sẵn rồi.

- Con lấy người ta, tuổi cha cao, ai trông nom?

- Ầy, lo gì chứ? Con gái lớn, lấy được chồng tao mừng.

Ông ngoại không thách cưới cũng không nói ra. Nói làm gì? Người ta hiểu cho thì tốt, không hiểu đặt điều, đơm chuyện cái tai nghe lại lấy bực vào người thì khổ. Nhưng đến ngày cưới người trai vẫn mang rượu, gạo, bạc trắng để mế khỏi mang tiếng là theo không. Họ hàng và người bản, hỉ hả bảo nhau "có con gái đẹp gả cho người ta cũng mát bụng".

Phong tục ở vùng này, con gái lấy chồng, vẫn ở lại nhà mình, lúc có con, nhà trai mới làm lễ rước con dâu và cháu nội. Chú rể sau lễ cưới phải về nhà mình, đến rằm tháng bảy, đốt mã trước cửa mả tổ tiên, ông bà và tết cổ truyền đón xuân thì sang nhà gái, ở với vợ vài ngày. Cứ thế cho đến lúc có con, vợ chồng mới được sống cùng nhau.

Từ lúc lấy nhau đã qua mấy mùa ngô, ăn hai rằm tháng bảy, một cái tết chính, mà mế vẫn là cô gái chưa thành đàn bà. Cái bụng thon nhỏ như con ong không chịu béo ra. Những đêm ngắn ngủi ở với nhau mải nói chuyện, chưa kịp yêu nhiều trời đã sáng rồi, lại phải xa thôi, để chờ những ngày gặp sau nói nhiều, yêu nhiều vậy.

Một chiều đầu tháng ba, tiết trời còn lạnh, còn phải đốt lửa sưởi, bỗng nhiên mây đen ở đâu ùn ùn kéo về, gió thông thốc dưới mặt sông thổi lên, ào ạt kéo từ núi cao chạy xuống, gió bốc cát quăng rào rào xuống lòng sông. Trời đất sầm sập trong cơn mưa xối xả, sấm chớp ì oàng, chan chát.

Mế tôi làm cỏ ngô, không kịp về nhà, đành ở lại chòi canh thôi. Ở đây lúc nào chả có sẵn gạo, sẵn ngô xay, có cả muối, tôm khô và chum tương nữa. Lửa vừa lép bép liếm chân kiềng, mế chợt nghe xa xa vang lên nhạc điệu lục lạc, hối hả, gấp gáp. Tiếng lục lạc ở cổ con ngựa nâu. Mế thảng thốt nhào ra cửa chòi canh. Kìa! Trong làn nước dày đặc cha tôi ướt lướt thướt, vuốt nước mưa ròng ròng trên mặt. Mế cuống lên vì lo lắng. Người bản biết cha tìm mế thì họa lớn rồi, bản phạt trâu, bò không sao, nhưng phạt hai cái tết không cho rể về nhà vợ đấy. Cha lắc đầu cười, nụ cười ấm lòng mế. Cha ôm mế nói gấp gáp:

- Em à, mai anh đi bộ đội rồi, anh phải liều thôi.

Mế cắn môi để không bật ra tiếng khóc. Tưởng như thời khắc dồn nén lại, bụng cồn lên nỗi khắc khoải, mế nói hẫng hụt:

- Anh ơi, chân anh đi xa biết khi nào gặp nhau? Chúng mình còn chưa có con...

- Bao giờ hết lũ giặc, anh về với em là có con thôi, nhưng... biết đâu ông "Phạ" thương...

Bỏ lửng câu nói, cha ghì chặt mế trong đam mê, khao khát, bừng bừng bốc lửa, hiến dâng trọn vẹn. Ngoài trời mưa gió không thôi gào thét, nước sông cuồn cuộn, dữ dội vỗ bờ ùm oạp.

Mế nhẹ nhàng thiếp đi trong vòng tay yêu thương của cha, đến lúc cái mắt mở được ra thì trời sáng tự bao giờ, cha ra đi không đánh thức mế, cha sợ mế không đủ nước mắt để chia tay người ra mặt trận.

Ông ngoại nhìn vết lõm dọc lối mòn đã ngờ ngợ, đến lúc thấy dưới gầm chòi lổn nhổn phân cùng vết chân ngựa thì lắc đầu thở dài.

Cái bụng mế ngày một đẫy ra tròn lẳn. Người bản xì xầm to nhỏ buông lời cay độc:

- Trồng cây có quả tự khắc ăn thôi, còn ai vào đấy nữa?

Lời nói nghiệt ngã dài mãi như trăm mũi tên nhọn, ngàn búi gai sắc cào rách da thịt, đâm vào bụng ông ngoại.

Ông tự dưng ốm. Ốm vì sự chê bai khinh rẻ của dân bản. Buồn bên ngoài, đau bên trong thế là ốm. Lá thuốc trong núi uống vào càng thêm đau. Mế đi gọi thầy mo, thầy pụt mà không ai chịu mở cổng, có nhà còn xua chó ra đuổi. Tủi quá nhục quá mà không nói ra được, có nói cũng không ai nghe.

Tiếng dữ theo con gió bay sang Pú Ngải. Bên nhà trai cho bà bác sang. Vừa leo cầu thang đến ngưỡng cửa, bà dừng lại, chỉ tay vào mặt mế, nói như dao chém đá:

- Gái hư đốn không làm dâu họ nhà tao được. Con gái ở với cha là đúng rồi. Thật đẹp quá. Ngẩng mặt không muốn lại muốn cúi mặt xuống đất. Thằng Sảng nó biết chuyện xấu xa đổ đốn này rồi đấy.

Nói thế rồi bà quày quả ra về. Ông ngoại đang ốm lay, ốm lắt, dựa vào cột để thở, nghe thế đổ vật xuống. Ông bỏ mế tôi lại một mình để đi vào rừng mả cùng tổ tiên. Mế gào lên như điên, như dại, cây trút lá rào rào như than như vãn...

Thời gian sau, bác Nhân bị thương trở về báo tin cha tôi hy sinh trên đường tiến về giải phóng Sài Gòn. Lúc ấy, mế chưa sinh tôi. Một lần nữa mế lại âm thầm khóc cho phận mế, phận tôi sao bạc bẽo đến thế?

Mế chợt ngừng lời, đôi mắt khô như đất bãi tháng chạp, mế không còn nước mắt để khóc nữa, mế lẩm bẩm nói với tôi mà như nói với mình:

- Khổ cho con tôi, chịu tang ông, tang cha từ trong bụng mế.

Giờ thì tôi biết, vì sao người bản xa lánh mế con tôi, tôi sẽ học nhiều cái chữ để tự minh oan cho mế, cho tôi. Và, tôi cũng đã hiểu vì sao mế hay đưa tôi ra chòi canh ngô đến thế.

*       *

Đêm khuya lắm rồi, gió rít, lùa sương vào nhà làm trời đã lạnh càng thêm lạnh. Tôi ôm mế, thủ thỉ kể với mế:

- Mế! Con đã nhận lời người con trai tên là Hùng, anh ấy dạy cùng trường Đại học Sư phạm với con.

Mế cười tủm tỉm:

- Thế à, tốt quá. Nhà nó ở đâu? Có là thằng trai vạm vỡ để làm cái cây gỗ chắc không?

- Bố mẹ anh ấy đang ở trong trại thương binh. Nhưng mà...

- Cái con này, lại chuyện gì thế? Mày đừng làm mế phải lo nữa.

- Hình như... hình như, bố anh Hùng là cha hay sao ấy...

Mế xoay người đặt tay lên vai tôi lắc lắc:

- Sao? Sao hả Sang? Mày nói đi, thằng Hùng nó kém tuổi hay bằng tuổi mày? Bố mế nó tên là gì?

- Anh ấy hơn con năm tuổi. Bác trai tên là Sảng, bác gái là Liên.

Mế tôi lẩm bẩm:

- Thế thì không đúng rồi. Cha mày... không! Người chết làm sao sống lại? Mà mày bảo tên là Sảng à? Sao lại trùng lặp thế? Có đúng không con?

Tôi phải nói thế nào đây khi chính tôi cũng như thực, như mơ, nửa tin, nửa ngờ. Chuyện này tôi phải kể, phải hỏi mế thôi.

Cách đây một tuần, tôi cùng anh Hùng đưa đoàn sinh viên về giao lưu ở trại thương binh. Anh Hùng giới thiệu tôi với gia đình. Bố anh ngồi trên chiếc xe lăn, thật tội! Bom đạn thằng giặc đã cướp đi của bác hai tay, hai chân. Nước mắt tôi tự dưng chảy ra, chảy ra mãi... lúc ấy, mẹ anh Hùng chợt thảng thốt kêu lên:

- Ơ kìa sao cháu Sang có khuôn mặt giống ông như đúc thế này?

Bác Sảng nhìn tôi đau đáu, ngỡ ngàng, rồi chợt thở dài. Tiếng thở của người đàn ông nghe sao xót xa đến thế. Bác đột nhiên hỏi tôi dồn dập về bố mẹ, quê hương.

Tôi kể với bác: "Cháu người rẻo cao, nhà cháu ở Nà Láy bên dòng sông Thoong. Cha cháu ở Pú Ngải nhưng hy sinh...".

Chưa kịp nghe tôi nói hết câu, bác chợt tái mặt đi nhợt nhạt, mắt trợn ngược lên, bọt mép sùi ra... Bác sĩ cấp cứu bảo, có chuyện phải nghĩ, thần kinh căng thẳng, di chứng của vết thương trong sọ não lại tái phát.

Mắt tôi bị hút vào chiếc vòng bạc hình đôi chim Noộc Phầy trên cổ bác Sảng, chiếc vòng bạc gia bảo có đôi "chim lửa" ấy chỉ có ở dòng họ "Ma" của mế. Tim tôi chợt đau thắt lại nơi lồng ngực. Có lẽ nào...

Mặt tôi đột nhiên trắng bợt bạt...

Chiều, nắng nhợt nhạt báo hiệu trời sắp tối, đã đến lúc chúng tôi phải đưa sinh viên về trường. Bác Sảng vẫn trong cơn mê man, sốt cao, chiếc khăn đắp trên trán thấm nước liên tục, chốc chốc bác lại hét lên: "Cái bụng vợ tao có con rắn độc... Đồ ăn ở... hai lòng", bác lảm nhảm câu được, câu mất: "Họ Nông ở... Pú Ngải nói... không phải... con tao...".

Bác Liên mẹ anh Hùng lặng lẽ cầm bàn tay tôi đặt lên ngực bác Sảng, người tôi run bần bật, nước mắt chảy tràn xuống hai má. Lạ thế, bác Sảng thôi không nói lảm nhảm nữa, đôi môi khô héo của bác khẽ nở nụ cười.

Anh Hùng phải đi thôi, anh bảo lên trường xin nghỉ sau. Trên xe anh thì thầm:

- Bố anh hy sinh lâu rồi. Mẹ anh tình nguyện chăm sóc bố Sảng suốt đời đấy. Bố quý anh lắm, chẳng hiểu có chuyện gì ở trên quê mà đằng đẵng mấy chục năm trôi qua, bố Sảng không cho báo tin bố còn sống về gia đình. Lạ thật!

*       *

Mế đứng dậy từ lúc nào, bỏ bắp ngô nướng trên ban thờ xuống, với tay lấy cây đàn tính ra so dây. Từng nốt  nhạc theo tay mế thánh thót ngân vang. Giai điệu cất lên như tiếng lầm rầm nguyện cầu thần sông, thần núi, như tiếng rì rầm xin thánh thần về một điều gì đó... Tiếng đàn đi từ quá khứ xa xưa rồi trở về thực tại, khi thì như cô đặc lại, lúc lại tan loãng ra không gian vời vợi. Mế tôi như trẻ ra hơn chục tuổi.

Gà gáy ran ran gọi sáng, thấp thoáng phía chân trời ban mai đang rạng dần lên.

Giục tôi đi hái nhiều bắp non cho vào tay nải để kịp chuyến ô tô đầu tiên về xuôi, đôi mắt loáng ướt của mế bắt lửa, sáng lấp lánh.

Tôi biết, lần đầu tiên mế tôi ra khỏi bản từ sau lễ hội "lôồng tôồng" năm xưa...

Dưới lòng sông, dòng nước không nguôi cất lên những tiếng rì rầm, thao thiết.

Có thể bạn quan tâm