Chân dung nhà dân tộc học qua một cuộc trưng bày

Giáo sư Từ Chi.
Giáo sư Từ Chi.

Gương mặt tiêu biểu của dân tộc học Việt Nam

Nguyễn Từ Chi (1925-1995) là một dịch giả, biên tập viên và một người thầy đáng kính của nhiều thế hệ học trò. Tuy vậy, ông được biết đến trước hết qua những công trình dân tộc học có tính kinh điển, như ông cũng tự nhận: "Sự nghiệp chính của cuộc đời tôi là nghiên cứu dân tộc học".

Nhờ sớm tiếp cận được tài liệu nước ngoài thông qua vốn tiếng Pháp phong phú, những nghiên cứu của ông chịu ảnh hưởng đậm nét lối tư duy và phong cách dân tộc học Pháp. Mối quan tâm học thuật của ông trải rộng từ mỹ thuật cho tới vũ trụ quan, cấu trúc xã hội, quan hệ dân tộc học lịch sử. Ông còn là một người điền dã mẫu mực với các kỹ năng nghiên cứu thực địa chuyên biệt và vốn tiếng Mường thành thạo.

Từ Chi là thành viên của một gia đình có truyền thống học thuật và yêu nước thuộc dòng họ Nguyễn Đức ở xã Ích Hậu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh. Ông nội là Nguyễn Hiệt Chi (1870 – 1935), một sĩ phu yêu nước có khuynh hướng duy tân, tham gia thành lập Công ty Liên thành và Trường Dục Thanh ở Phan Thiết. Từ Chi thừa hưởng được tính ham hiểu biết và say mê nghiên cứu từ cha là dược sĩ Nguyễn Kinh Chi (1899 – 1986), người đã từng làm việc tại Kon Tum và đã viết cuốn "Mọi Kon Tum" cùng em trai là Nguyễn Đổng Chi. Ông lớn lên ở Huế, mẹ là bà Tôn Nữ Thị Vân (1900 - 1965) dòng dõi hoàng tộc, Từ Chi thừa hưởng không ít nét tính cách Huế: khiêm nhường, thâm trầm, hóm hỉnh và đặc biệt tinh tế. 

 Từ việc phân tích, so sánh những mô-típ hoa văn và đặc điểm bố cục các đồ án trang trí, ông khám phá ra mối liên hệ đáng tin cậy giữa hoa văn Mường ngày nay với hoa văn trên trống đồng Đông Sơn hàng nghìn năm trước.

Đồng thời, ông cũng thấy mạch nghệ thuật Đông Sơn vẫn chảy trong nghệ thuật trang trí của cả người Thái và cư dân bản địa Tây Nguyên. Đó là một minh chứng sinh động về tính bản địa của nền văn hoá Đông Sơn, và là cứ liệu củng cố quan điểm khoa học cho rằng tổ tiên cư dân Việt – Mường là một chủ nhân quan trọng của nền văn hoá này. Nghiên cứu của ông về “cõi sống, cõi chết”, thực ra là vũ trụ luận của người Mường, là một trong những điểm sáng trong nhân học đương đại Việt Nam.

Bằng tri thức uyên thâm và sự nghiên cứu điền dã công phu, công trình Hoa văn Mường tuy không đồ sộ, nhưng có giá trị lớn, gây tiếng vang ở cả nước ngoài.

GS Từ Chi đã được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh với cụm bốn công trình: "Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc Bộ", "Hoa văn Mường", "Hoa văn các dân tộc Giarai – Bana", "Người Mường ở Hoà Bình". Ngoài ra, ông còn có nhiều nghiên cứu sâu sắc khác. Ông được coi là gương mặt lớn, tiêu biểu của nền dân tộc học Việt Nam.

Tuy  vậy, tại triển lãm này, qua những tư liệu lần đầu tiên công bố, người xem không chỉ biết nhà khoa học lớn với những công trình, luận điểm, mà một con người thực với những chi tiết đời thường, phong phú và thú vị đến bất ngờ.

Đó là những bức ảnh đen trắng chụp GS Từ Chi từ thời trẻ, ảnh thời xuân sắc của bà Nguyễn Thị Tuất, vợ ông; ảnh giáo sư  trong những chuyến đi điền dã, những năm sống ở Ghi-nê...

 
Giáo sư Từ Chi qua nét vẽ của hoạ sĩ Trần Duy.

Người xem còn được thấy cả những tấm thẻ sinh viên thời ông học Đại học Tổng hợp, với chữ ký của thầy hiệu trưởng Nguỵ Như Kon Tum từ năm 1959; chứng chỉ tốt nghiệp đại học từ năm 1961 nay đã ố màu; bản tự nhận xét cá nhân với phần “khuyết điểm” vào năm 1966...

Cuộc đời ông được tái hiện qua các giai đoạn: Con đường đến với dân tộc học, các công trình đóng góp, phong cách làm việc, cho đến một mối tình cao thượng, và một phần rất quan trọng là hình ảnh Từ Chi trong mắt những người thân, bạn bè, học trò, và cả những người dân Hoà Bình nơi ông từng đến ở nhờ để tìm hiểu, nghiên cứu...

Ông Đinh Công Chẩy, 67 tuổi, (xóm Ào, xã Qui Mỹ, Tân Lạc, Hoà Bình) kể: "Mọi người ở đây ai cũng cảm động vì thấy bác ấy già rồi, răng đã yếu, khi ăn phải bóp đi bóp lại cho nắm xôi mềm ra mới ăn được, và mỗi lần từ Hà Nội lên thì bác ấy kiên trì đi bộ hơn 10 cây số từ ngã 3 Mãn Đức vào".

Còn GS.TS Phạm Đức Dương thì nhớ lại: "Từ Chi luôn khoác trên vai một chiếc túi may bằng vải ghép, trong đó có vài tập bản thảo và cái điếu cày ngắn không chứa nước. Ông còn xách theo chiếc cặp lồng vài ngăn, trong đó bà Tuất để sẵn cơm, ít hạt lạc rang, ít dưa và món thường xuyên nhất là cá mè nấu xâm xấp với rau muống”.

TS Thu Nhung Mlô kể lại: "Từ Chi thường mặc chiếc áo chàm, râu tóc để dài, trông như một ông già người dân tộc thiểu số. Có lần cụ nói vui: "Tôi mong chỉ có hai chiếc áo, một chiếc mặc trên người, khi mở tủ ra chỉ còn chiếc kia, khỏi phải lựa chọn!”. “Điều lớn lao nhất tôi học được ở ông là niềm say mê, phải gọi là đam mê, đối với nghiệp dân tộc học. Điều sâu sắc nhất về nhân cách tôi học được ở ông là lòng bao dung với cuộc đời”.

Qua những hiện vật, lời kể thú vị đó, có thể thấy rõ một phong cách làm việc của nhà khoa học, hơn thế nữa là một nhân cách lớn.

Một thể nghiệm  mới trong hoạt động trưng bày

"Nhà nghiên cứu độc đáo này, đầy tính độc lập, đầy tài năng, như tôi chứng kiến trong vòng hai chục năm cuối đời ông, được mọi người ngưỡng mộ, bạn bè và đồng nghiệp yêu mến. Từ Chi mang sẵn trong mình phẩm chất của một con người thực địa: một tinh thần cởi mở, vì mọi người, một tính cách tò mò khám phá, có thể nói là về mọi phương diện, sử dụng một cách thuần thục ngôn ngữ của người địa phương"... (GS. George Condominas).

Đây là lần đầu tiên ở nước ta tổ chức một cuộc trưng bày giới thiệu về một nhà khoa học, có thể coi là một thể nghiệm về cách tiếp cận mới trong lĩnh vực hoạt động bảo tàng.

Cách đây một năm, Bảo tàng Dân tộc học đã tiếp nhận di cảo của cố GS. Nguyễn Đức Từ Chi từ Viện nghiên cứu Đông Nam Á. Và để chuẩn bị cho cuộc trưng bày này, các cán bộ bảo tàng đã phải mất không chỉ vài tháng, mà là một năm tu sửa và phục chế 60 hiện vật giấy với hàng nghìn trang. Hầu hết các hiện vật đã bị ố vàng; một số bị mối mọt, mất chữ, rách, nát và đang tự phân huỷ. Họ từng bước tiến hành vệ sinh khô, vệ sinh ướt (sử dụng dung môi phù hợp), vá, bồi, sử dụng các chất liệu hồ có nguồn gốc thực vật (Wheat Starch paste), giấy dó Việt Nam và Nhật Bản. Vì vậy, những ai đã từng tận mắt nhìn thấy những bút tích, di cảo của GS Từ Chi khi được chuyển giao đến bảo tàng, đều không khỏi ngạc nhiên khi nhìn lại chúng ở cuộc trưng bày này, với một hiện trạng khác hẳn.

Bên cạnh việc lựa chọn trong số hàng trăm hiện vật, dựng panô những bản bút tích phóng lớn, những tấm ảnh từ thời xa xưa… để có được một phòng trưng bày thật hấp dẫn, bảo tàng cũng làm được một việc đáng kể là đã thu thập những tâm sự, hồi tưởng chân thực và cảm động nhất từ những người bạn, người thân của GS Từ Chi, đặc biệt là những người dân tộc Mường ở Hòa Bình đã từng gần gũi với ông.

Một đoạn bút tích của Giáo sư Từ Chi.

Hơn thế nữa, một tuần sau khi khai mạc trưng bày, một cuộc thuyết trình của GS Phạm Đức Dương (Viện Đông Nam Á) về nhà khoa học Từ Chi cũng được tổ chức, tạo cơ hội cho người xem được hiểu sâu hơn về ông.

TS Nguyễn Văn Huy, Giám đốc Bảo tàng Dân tộc cho hay: "Cái khó ở đây là chưa bao giờ chúng ta dám làm một cuộc trưng bày về cuộc sống của một nhà khoa học bình thường, nhất lại là một nhà dân tộc học mà đối với nhiều người chủ đề đó có vẻ còn xa lạ hoặc khó kéo họ đến xem được”. 

Ngay trong buổi khai mạc, đã có khoảng vài trăm người đến xem, đó là một con số đáng nể đối với một cuộc trưng bày bảo tàng - vốn là hoạt động thầm lặng ở nước ta hiện nay. Rất nhiều người bày tỏ cảm giác hài lòng và ngạc nhiên "không nghĩ cuộc trưng bày này lại hấp dẫn đến thế". Có thể coi đó là một thành công, và theo ông Huy, thành công này mở ra một xu hướng mới cho hoạt động trưng bày của bảo tàng.

Có thể bạn quan tâm