Hoạt động xuất khẩu cao-su của các doanh nghiệp Việt Nam sang Trung Quốc từ đầu năm đến nay diễn ra khá sôi động tại khu vực cửa khẩu Móng Cái (Quảng Ninh). Ông Cao Tùng Dương, Tổ trưởng tổ dây chuyền thủ tục hải quan Cửa khẩu quốc tế Móng Cái cho biết: Một trong những mặt hàng xuất khẩu nhiều nhất qua cửa khẩu đó là cao-su. Các doanh nghiệp có khối lượng và trị giá xuất khẩu cao-su lớn sang Trung quốc đó là Tổng công ty cao-su Việt Nam, Công ty khoa học kỹ thuật cao-su Viễn Đông-Việt Nam, Công ty TNHH sản xuất thương mại Thành Long (TP Hồ Chí Minh)...". Những ngày đầu năm 2004, có ngày có doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu mặt hàng cao-su sang Trung Quốc đạt giá trị kim ngạch hơn nửa triệu USD. Đây là một trong những số liệu kim ngạch xuất khẩu cao-su kỷ lục qua cửa khẩu Móng Cái trong một ngày trong vòng gần chục năm lại đây.
Điều đáng chú ý là, cao-su xuất khẩu khá mà giá vẫn giữ được ở mức cao. Ông Lê Tiến, Trưởng Trạm giao dịch thương mại của Tổng công ty cao-su Việt Nam tại Móng Cái cho biết: Cao-su 3L giá xuất khẩu hiện nay ở mức khá cao. Nếu như những ngày đầu năm sản phẩm cao-su 3L xuất với giá 10.800 nhân dân tệ, thì nay đang dao động ở mức 11.400 - 11.500 nhân dân tệ/tấn, cao-su nguyên liệu (mủ cao-su) giá 6.500 nhân dân tệ/tấn (mức giá này tăng khoảng 10% so với cùng kỳ năm trước). Hai tháng đầu năm 2004, Tổng công ty cao-su Việt Nam xuất khẩu qua cửa khẩu Móng Cái đạt khoảng 1.700 tấn, kim ngạch khoảng hơn hai triệu USD.
Năm 2003, ngành Cao-su Việt Nam xuất khẩu ước đạt 450.000 tấn với kim ngạch khoảng 350 triệu USD, tăng 3% về lượng và 47,5% về trị giá so với năm 2002. Thực tế, xuất khẩu cao-su của Việt Nam theo con đường chính ngạch mới chỉ chiếm tỷ trọng chưa tới 50% tổng kim ngạch toàn ngành. Tỷ lệ còn lại chủ yếu xuất sang Trung Quốc (chiếm 40%) theo con đường tiểu ngạch.
Dự báo trong thời gian tới, thị trường cao-su thế giới sẽ có những diễn biến thuận lợi, giá cao-su có thể duy trì ổn định ở mức khá cao do ngành sản xuất ôtô trên thế giới có triển vọng phục hồi. Sản lượng mủ cao-su ở các nước châu Á - khu vực sản xuất cao-su chủ yếu sẽ không tăng mà có xu hướng giảm. Malaysia - đối thủ cạnh tranh chính của Việt Nam trên thị trường xuất khẩu mủ cao-su đang có chủ trương giảm dần diện tích cao-su để chuyển sang khai thác cây cọ dầu... Đặc biệt, kể từ ngày 1-1-2004, Bộ Thương mại và Tổng cục Hải quan Trung Quốc đã quyết định bãi bỏ hạn ngạch nhập khẩu cao-su. Và theo ông Tiến, mối quan hệ làm ăn song phương giữa các doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp Trung Quốc đang diễn ra rất suôn sẻ.
Xuất khẩu cao-su sang Trung Quốc đến thời điểm này độ an toàn khá cao, ít rủi ro, khâu thanh toán đã thuận tiện hơn nhiều vì các ngân hàng thương mại Việt Nam đã mở quan hệ với các ngân hàng Trung Quốc đưa dịch vụ thanh toán biên mậu vào hoạt động.
Những năm trước, các nhà sản xuất cao-su Việt Nam thường đau đầu về bài toán cao-su tồn kho, thì đến năm 2003 - 2004, tình hình đã sáng sủa hơn rất nhiều, cao-su xuất khẩu nói chung và sang Trung Quốc nói riêng đang được giá. Mủ cao-su của Việt Nam có chất lượng và độ đàn hồi được nhiều nhà nhập khẩu đánh giá cao.
Cho đến nay, Việt Nam mới chỉ có 63% diện tích cao-su được đưa vào khai thác, tiềm năng phát triển còn rất lớn. Những diễn biến thuận lợi trên thị trường đang mở ra triển vọng cho các nhà sản xuất cao-su Việt Nam đẩy mạnh sản xuất, xuất khẩu sang thị trường láng giềng hơn một tỷ dân.
Tuy nhiên, thị trường Trung Quốc cũng là một thị trường có nhiều biến động. Diễn biến giá cả thất thường, chỉ cần có một tác động nhỏ về cơ chế, chính sách của phía Trung Quốc, ngay lập tức giá cao-su cũng biến động theo. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam cần phải quan tâm, chú ý hơn đến các chính sách quản lý về thuế, các điều kiện rào cản kỹ thuật mà phía Trung Quốc có thể đưa ra trong hoạt động xuất khẩu nói chung và xuất khẩu cao-su nói riêng để có những biện pháp điều chỉnh hoạt động một cách kịp thời, hiệu quả. Ngoài ra, các điều kiện về chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng... với đối tác cũng cần phải được quan tâm hơn.
Hiện nay sản phẩm cao-su của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc vẫn phải đi qua khâu trung gian (thông qua các doanh nghiệp làm nhiệm vụ biên mậu của Trung Quốc), khách hàng có nhu cầu trực tiếp thì lại không mua bán thẳng với doanh nghiệp Việt Nam được bởi những quy định trong chính sách biên mậu của họ. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hai bên quan hệ làm ăn, Bộ Thương mai Việt Nam cũng đã chủ trương đề nghị với phía Trung Quốc xem xét xóa bỏ cơ chế biên mậu.
Để mặt hàng cao-su xuất khẩu có giá trị ngày càng cao, nhà sản xuất cao-su của ta cũng cần phải đầu tư mở rộng sản xuất, chế biến mủ tạp thành cao-su thành phẩm. Hiện nay, tỷ trọng cao-su thành phẩm xuất khẩu qua Móng Cái chưa nhiều lắm. Trong khi đó, giá cao-su thành phẩm (thí dụ cao-su SRV-3L) xuất khẩu cao gần gấp đôi so với mủ cao-su. Tổng công ty cao-su Việt Nam đang có chủ trương không khuyến khích các đơn vị thành viên xuất khẩu mủ cao-su nguyên liệu vì giá trị sản phẩm không cao, đồng thời không thúc đẩy phát triển sản xuất trong nước.
(Thời báo Tài chính)