Các quy định mới về cho thuê quyền sử dụng đất

Theo quy định của Bộ luật Dân sự (BLDS) thì cho thuê QSDĐ là sự thoả thuận giữa các bên tuân theo các điều kiện, nội dung, hình thức chuyển QSDĐ được BLDS và Pháp luật đất đai quy định. Theo đó, bên cho thuê chuyển giao đất cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, còn bên thuê phải sử dụng đất đúng mục đích, trả tiền thuê và trả lại đất khi hết thời hạn thuê (Điều 714 BLDS).

Từ khái niệm trên cho thấy, quyền cho thuê QSDĐ được phát sinh trên cơ sở QSDĐ hợp pháp của người cho thuê. QSDĐ này có thể được hình thành từ nguồn đất được Nhà nước giao hoặc do nhận chuyển nhượng hợp pháp từ người khác, theo quy định tại Luật Đất đai 1993 và Luật Đất đai sửa đổi bổ sung năm 1998 thì Nhà nước có quyền cho thuê đất để sử dụng vào mọi mục đích sản xuất, kinh doanh cho tất cả các đối tượng có nhu cầu sử dụng đất mà không thuộc diện được Nhà nước giao đất; việc cho thuê đất được thực hiện bằng một quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền - quyết định cho thuê đất. Như vậy, quyền cho thuê đất của Nhà nước là một quyền năng hết sức rộng rãi, Nhà nước có quyền cho thuê đối với mọi đối tượng, để sử dụng vào mọi mục đích và không bị khống chế bởi không gian, thời gian và diện tích đất.

Khác với quyền cho thuê đất của Nhà nước, quyền cho thuê đất của người sử dụng đất được phát sinh trên cơ sở QSDĐ được chủ sở hữu là Nhà nước trao cho. Chính vì vậy, người sử dụng đất không được tùy tiện cho thuê QSDĐ của mình mà luôn luôn được Nhà nước kiểm soát. Việc cho thuê được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, thỏa thuận và thông qua hình thức hợp đồng - hợp đồng cho thuê. Cho thuê QSDĐ theo Luật Đất đai 1993 và BLDS 1995 chỉ có một số đối tượng thật đặc biệt sử dụng một loại đất trong những điều kiện, hoàn cảnh đặc biệt mới được quyền cho thuê, đó là các hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất nông nghiệp để trồng cây hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản được quyền cho thuê QSDĐ khi có một trong các điều kiện:

- Do hoàn cảnh gia đình neo đơn, khó khăn;
- Do thiếu sức lao động;
- Do chuyển sang làm nghề khác nhưng chưa ổn định (Điều 78 Luật Đất đai 1993, khoản 1 Điều 715 BLDS và Điều 15 Nghị định số 17/CP/1999).

Bên cạnh đó, pháp luật cũng ràng buộc trách nhiệm của bên thuê và bên cho thuê rất chặt chẽ: "Người đi thuê không có quyền cho thuê lại"; "thời hạn cho thuê không quá 3 năm, trong trường hợp đặc biệt thời hạn cho thuê có thể kéo dài nhưng không quá 10 năm và phải được sự đồng ý của Chính phủ (Điều 715 BLDS và Điều 15 Nghị định số 17/CP).

Luật Đất đai sửa đổi, bổ sung 1998 và Nghị định số 17/CP/1999 mở rộng quyền cho thuê đất của hộ gia đình, cá nhân và lần đầu tiên quyền cho thuê QSDĐ của tổ chức được đề cập trong luật. Theo quy định tại Điều 15 Nghị định số 17/CP/1999 thì các hộ gia đình được Nhà nước giao đất không chỉ có quyền được cho thuê QSDĐ nông nghiệp hàng năm, đất nuôi trồng thuỷ sản theo quy định tại Điều 78 Luật Đất đai I993 mà họ còn được cho thuê QSDĐ ở, đất chuyên dùng. Cùng với việc mở rộng quyền cho thuê QSDĐ của hộ gia đình, cá nhân, Luật Đất đai sửa đổi, bổ sung 1998 đã xác lập quyền cho thuê QSDĐ của các tổ chức sử dụng đất. Tuy nhiên, không phải bất kỳ tổ chức nào có QSDĐ hợp pháp cũng được quyền cho thuê QSDĐ mà chỉ có tổ chức kinh tế được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất và tổ chức kinh tế nhận QSDĐ hợp pháp từ người khác mới được quyền cho thuê QSDĐ (Điều 78c và Điều 78e Luật Đất đai sửa đổi, bổ sung l998; Điều 19 Nghị định số 17/CP/1999).

Luật Đất đai được Quốc hội thông qua ngày 26-11-2003 có hiệu lực ngày l-7-2004 có quy định mới tại các khoản 1 Điều 106, điểm b khoản 2 Điều 110, khoản 3 Điều 113, điểm a khoản 2 Điều 119 như sau: Người sử dụng đất được thực hiện quyền cho thuê QSDĐ khi có đủ các điều kiện:

- Có giấy chứng nhận QSDĐ;
- Đất không có tranh chấp;
- QSDĐ không bị kê biên để thi hành án;
- Trong thời hạn sử dụng đất.

Với các quy định của Luật Đất đai năm 2003, phạm vi chủ thể được quyền cho thuê cũng được mở rộng hơn: Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất không phải là đất thuê được quyền cho thuê QSDĐ; tổ chức kinh tế được nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà tiền sử dụng đất đã trả không có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước; người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài sử dụng đất để thực hiện các dự án đầu tư tại Việt Nam.