Cả cuộc đời cha tôi gắn bó với những vùng quê. Ông có nhiều kỷ niệm với những người nông dân nghèo. Thời kháng chiến, có lần đi vẽ, qua đò, ông đã đánh rơi xuống sông chiếc cặp cùng với tất cả đồ nghề vẽ truyền thần kiếm sống: Giấy, bút, nghiên mài mực, mầu vẽ...
Về nhà, ông than thở với mẹ tôi:
- Thế là mất cả "cần câu cơm" rồi. Phen này chết đói cả nhà.
Vào những năm đói kém, có khi bữa cơm của cả nhà trông vào mấy bức vẽ truyền thần của cha tôi.
Tình cờ, một người đánh cá lại kéo lưới được chiếc cặp của cha tôi. Không hiểu tại sao, ông ấy lại biết nó là của cha tôi nên đem đến trả. Con sông nhỏ ấy cách nhà tôi mấy làng. Chiếc cặp còn nguyên vẹn.
Nếu ai xem nhiều tranh của cha tôi, người ta sẽ gọi cha tôi là họa sĩ của những cô thôn nữ.
Năm 1962, bức tranh Kỳ lưng của cha tôi đã làm xôn xao giới họa sĩ. Bức tranh là cả một cuộc cách mạng. Thời kỳ ấy, do quan niệm khắt khe nên hầu như họa sĩ không được vẽ tranh "nuy". Bức tranh Kỳ lưng của cha tôi là bức đầu tiên "phá rào" vẽ một cô thiếu nữ tắm trần.
Bức tranh Kỳ lưng vẽ hai cô thôn nữ đang tắm cạnh chum nước. Sau giờ làm đồng, buổi chiều về ở một góc vườn kín đáo, hai chị em "kỳ lưng" cho nhau. Nói về bố cục, cô chị ngồi giữa bức tranh hình chữ nhật. Phía sau cô, cô em chừng mười bốn, mười lăm tuổi đang giơ tay phải lên kỳ sau lưng chị. Cô chị quay mặt lại thầm thì tâm sự trông thật tình cảm.
Cái khó nhất là họa sĩ phải để người ngồi tắm quay mặt về phía bên phải cho có tình cảm và cô đằng sau có thể kỳ bằng tay phải. Nếu để cô ngồi tắm quay lưng về bên phải thì cô ngồi phía sau không lấy tay phải kỳ được. Ðường thẳng của bức tường nhà phía sau hai cô và đường thẳng của cái chum làm bố cục tranh được vững vàng, không bị lỏng lẻo. Nét ngang của bụi cây phía xa, của cán gáo nước ngang trên vại thắt chặt bức tranh hơn. Những đường cong mềm mại của lưng hai cô gái làm dịu đi các đường thẳng trong tranh.
Về mầu sắc, mầu lạnh choán nhiều hơn: mầu trắng lưng trần của cô chị và tay chân trần của hai chị em, mầu xanh của bụi cây. Tường, đất và vại nước mầu nóng lạnh lẫn lộn. Trong vại có nước và dưới đất chỗ cô ngồi tắm cũng có nước. Một khuôn cửa sổ nhỏ trên tường làm bớt tối ở chỗ ấy.
Thư ký ở Hội Mỹ thuật đưa ông Phan Lạc Tuyên đến xem bức tranh Kỳ lưng của cha tôi. Ông khen bức tranh và nói:
- Nếu như ông vẽ bức tranh tắm đêm nữa thì hay.
Vẽ bức tranh Kỳ lưng, cha tôi tự cho là "lãng mạn" vì cô gái trong tranh ở trần, chỉ mặc quần ngắn. Cha tôi đã kể lại trong hồi ký: Việc được Hội chú ý đến bức tranh Kỳ lưng làm cha tôi thêm phấn khởi. Cha tôi mừng, vì Hội không phê phán là "lãng mạn", rồi lại bán được tranh. Có lần, ông Trần Ðình Thọ, ông Trần Văn Lắm gặp cha tôi ngoài cổng, liền hỏi thăm sức khỏe của cha tôi:
- Trông bác khỏe ra.
Ông Sĩ Ngọc nghe thấy, vừa cười vừa nói đùa:
- Bác còn vẽ được nhiều cái Kỳ lưng.
Cha tôi cũng đáp đùa theo:
- Vâng, tôi phải vẽ nhiều, nhiều bức mát mẻ như bức tắm Kỳ lưng.
Nhưng vẽ nhiều Kỳ lưng chứ không phải "Kỳ nhiều lưng" đâu nhé.
Sau khi bức tranh Kỳ lưng ra đời, cha tôi được bạn bè, công chúng khen ngợi, động viên. Phấn khởi, ông đã vẽ tiếp bộ tranh nổi tiếng Trăng tỏ, Trăng lu. Bộ tranh này vẽ các cô thôn nữ tắm đêm dưới ánh trăng.
Cha tôi dạy ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật được mấy năm thì đến tuổi về hưu. Cha tôi rất muốn tìm học trò để truyền nghề. Nhưng họa sĩ trẻ hồi ấy thường thích vẽ tranh sơn dầu. Ít ai thích vẽ lụa, nhất là vẽ lụa theo phong cách Nguyễn Phan Chánh. Cách vẽ của cha tôi rất công phu. Ông phải quét mầu nhiều lớp, sau mỗi lần vẽ mầu lại phải "rửa" lại bằng nước, cứ như vậy lặp đi lặp lại nhiều lần. Vẽ trên lụa không xóa được như vẽ sơn dầu. Chị em chúng tôi không ai theo nghề của cha vì thấy vất vả quá. Thời gian đầu ra Hà Nội, Phan Cảnh vẽ cho xưởng phim hoạt hình để có thêm tiền đi học. Em vẽ rất đẹp, nhưng lại theo nghề văn.
Cô cháu gái gọi cha tôi là bác ruột đi theo nghề họa sĩ, nhưng chỉ thích vẽ sơn dầu. Cô phàn nàn: "Bác bắt cháu học vẽ lụa chẳng khác gì bảo cô bé tập violon đi học kéo nhị".