BHXH Việt Nam trong phát triển và thách thức hội nhập

BHXH Việt Nam trong phát triển và thách thức hội nhập

Từ khi thực hiện cải cách kinh tế năm 1986, việc chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã khai thác, huy động và khuyến khích mọi nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội  đất nước. Quan hệ lao động phát triển mạnh và người lao động được bình đẳng trước các chính sách xã hội.

Hoạt động BHXH dựa trên nguyên tắc cơ bản "đóng -  hưởng" đã được hình thành và phát triển. Ngày 1-1-1995, Bộ luật Lao động có hiệu lực thi hành, trong đó có chương XII về Bảo hiểm xã hội và Chính phủ ban hành Nghị định số 12/CP ngày 26-1-1995 về Ðiều lệ BHXH áp dụng đối với công chức, công nhân, viên chức Nhà nước và người lao động.

Từ đó đến nay, chính sách BHXH cũng thường xuyên được bổ sung, sửa đổi kịp thời cho phù hợp nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội từng giai đoạn và có nhiều điểm tương đồng trong sự hội nhập hệ thống BHXH của các nước trong khu vực và thế giới.

Những nội dung cụ thể đánh dấu cải cách về BHXH ở nước ta là: Ðối tượng tham gia BHXH bắt buộc không chỉ bó hẹp đối với những người lao động trong khu vực Nhà nước, mà bao gồm tất cả những người lao động có quan hệ lao động hay còn gọi là người lao động làm công ăn lương trong các doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế. Do đó đã tạo được sự bình đẳng giữa những người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế khác nhau cùng thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi BHXH, tạo được sự yên tâm, tin tưởng và sự công bằng cho mọi người lao động trước chính sách BHXH. Hình thành được quỹ BHXH trên cơ sở đóng góp của hai bên tham gia quan hệ lao động: người sử dụng lao động và người lao động và sự hỗ trợ của Nhà nước.

Việc đóng góp vào quỹ BHXH và được hưởng quyền lợi từ nguồn quỹ này thể hiện sự tuân thủ nguyên tắc cơ bản của BHXH và là cơ sở để phân biệt chính sách BHXH với các chính sách trợ cấp xã hội, chính sách ưu đãi xã hội trong hệ thống an sinh xã hội. Quỹ BHXH được sự bảo hộ của Nhà nước và hoạt động độc lập với ngân sách nhà nước. Hơn 10 năm qua, nguồn quỹ BHXH đã trở thành nguồn quỹ dự  phòng rất quan trọng giúp Nhà nước chủ động đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, tạo thêm nhiều chỗ làm mới cho người lao động. Sự bền vững của nguồn quỹ dự phòng này chính là sự bảo hành của Nhà nước đối với người lao động và các tầng lớp dân cư khác trong tiến trình CNH, HÐH đất nước. Các chế độ BHXH được kế thừa và phát triển nhưng quyền lợi đã được mở rộng hơn.

Những người đã được hưởng chế độ BHXH hằng tháng từ trước năm 1995 như: hưu trí, tử tuất, mất sức lao động...   thì đến nay vẫn tiếp tục được hưởng và mức trợ cấp cũng thường xuyên được điều chỉnh tăng lên cho phù hợp mức sống bình quân chung toàn xã hội và tốc độ tăng trưởng kinh tế. Hình thành được Hệ thống ngành BHXH Việt Nam gồm ba cấp từ Trung ương đến địa phương. Từ năm 2002 đã chuyển  Bảo hiểm Y tế (BHYT) sang BHXH Việt Nam.  Hệ thống BHXH Việt Nam tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương đã chuyên môn hóa việc tổ chức thực hiện tốt các chính sách, chế độ BHXH. Từ  năm 1992, nước ta triển khai chính sách BHYT và sau nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đến nay những nội dung cơ bản của chính  sách BHYT hiện hành  là:

- Thực hiện chế độ BHYT bắt buộc đối với những người có quan hệ lao động và người hưởng chế độ hưu trí, mất sức lao động. Nhà nước cấp kinh phí để tham gia BHYT bắt buộc cho các đối tượng thuộc diện bảo trợ xã hội như: người có công với cách mạng, người tham gia kháng chiến và con đẻ của họ bị nhiễm chất độc hóa học; thân nhân sĩ quan tại ngũ, người nghèo...

Hình thành quỹ BHYT từ nguồn đóng góp của các bên tham gia BHYT, trong đó bao gồm cả sự đóng góp của Nhà nước cho một số đối tượng xã hội. Quỹ BHYT bắt buộc và quỹ BHYT tự nguyện được quản lý và hạch toán độc lập để chi trả các chi phí KCB theo quy định nhưng có sự điều tiết lẫn nhau khi cần thiết. Thực hiện chế độ BHYT tự nguyện cho những đối tượng  không thuộc diện tham gia BHYT bắt buộc.  Người tham gia BHYT tự nguyện về cơ bản được hưởng các quyền lợi về KCB như người tham gia BHYT bắt buộc và được bình đẳng khi KCB tại các cơ sở KCB đã ký kết hợp đồng với cơ quan BHXH. Riêng trẻ em dưới 6 tuổi được chăm sóc sức khỏe ban đầu, được khám bệnh, chữa bệnh không phải trả tiền tại các cơ sở y tế công lập và đang được nghiên cứu đưa vào đối tượng BHYT bắt buộc.

Đầu năm 1995, khi thực hiện cải cách BHXH, nước ta có 2,85 triệu người từ chính sách bao cấp chuyển sang thì đến cuối năm 2006 số người tham gia BHXH là 6,7 triệu  người (không kể đã giải quyết hơn 1,5 triệu người nghỉ việc hưởng lương hưu, hưởng trợ cấp một lần), riêng số tiền thu BHXH năm 2006 đạt khoảng 22.000 tỷ đồng. Tổng số tiền sinh lợi của quỹ BHXH qua 10 năm (1997-2006) là khoảng 16.000  tỷ đồng, riêng tiền lãi năm 2006 ước tính đạt 3.800 tỷ đồng.  Bình quân mỗi năm tăng thêm 470 nghìn người tham gia BHXH. Năm 1993 mới có 3,7 triệu người tham gia BHYT thì đến năm 2006 tăng lên khoảng 36 triệu người, chiếm khoảng 40% dân số cả nước, trong đó có 9,6 triệu người tham gia BHYT tự nguyện. Tổng số thu BHYT năm 2006 là khoảng 4.300 tỷ đồng.

Tuy đạt được thành tựu, nhưng chính sách BHXH ở nước ta vẫn còn tồn tại một số vấn đề. Ðó là  chính sách BHXH còn bị lồng ghép với các chính sách khác như chính sách giải quyết lao động dôi dư... Chất lượng khám, chữa bệnh cho người có thẻ BHYT còn nhiều bất cập. Ðặc biệt, chưa xác lập được đầy đủ mối quan hệ tương thích giữa mức đóng góp và khung quyền lợi được hưởng đã dẫn đến việc cân đối quỹ BHYT chưa bền vững.

Như vậy, chính sách BHXH, BHYT cải cách được ban hành trên cơ sở kế thừa và phát triển các quyền lợi có liên quan trước đó, nên một mặt đã không ảnh hưởng đến quyền lợi của những người đang nhận trợ cấp BHXH, BHYT và khắc phục được những khó khăn về nguồn chi trả trong thời kỳ bao cấp; mặt khác, đã mở rộng diện đối tượng tham gia BHXH, góp phần tạo ra sự chuyển đổi êm đẹp về mặt xã hội từ nền kinh tế kế hoạch hóa hành chính tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, cũng phải kể đến mô hình quỹ BHXH tập trung và được quản lý thống nhất theo hệ thống ngành dọc từ Trung ương đến địa phương đã khẳng định sự phù hợp của nó đối với cải cách BHXH và mô hình quản lý này thật sự có hiệu quả để sự nghiệp BHXH được phát triển.

Nếu nhìn dưới góc độ của quá trình công nghiệp hóa mà Ðảng và Nhà nước ta đang thực hiện trong nhiều năm qua thì việc gia nhập WTO chính là yếu tố thúc đẩy nhanh chóng cho mục tiêu đưa nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 trở thành hiện thực... Sự thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hóa sẽ kéo theo tác động chuyển đổi cơ cấu kinh tế và phân bố lại lao động và dân cư. Ðồng thời, thị trường lao động và quan hệ lao động phát triển mạnh, số người tham gia thị trường lao động tăng lên, tiền lương và thu nhập bình quân chung của người lao động được nâng cao chính là điều kiện để mở rộng và tăng cường hệ thống bảo hiểm xã hội.

Tuy nhiên, những  tác động tiêu cực của quá trình này cũng xuất hiện: Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng quyết liệt sẽ dẫn đến nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản, một bộ phận lao động bị thất nghiệp, sức ép về việc làm ngày càng lớn; cường độ lao động gia tăng; điều kiện sống của một bộ phận lao động sẽ khó khăn hơn...

Do vậy cùng với các công cụ điều tiết khác như: chính sách thuế, chính sách an sinh xã hội, thì BHXH đang trở thành một công cụ đắc lực của Nhà nước ta trong việc điều tiết cân bằng xã hội vì nó liên quan nhiều lĩnh vực cấp thiết của đời sống xã hội và được nhiều tầng lớp dân cư hưởng ứng.

Những mục tiêu cụ thể cần phải đạt được của hệ thống BHXH trong những năm tới như sau:  Thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH theo quy định của Luật BHXH, triển khai kịp thời chế độ BHXH thất nghiệp, chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện. Mở rộng mạng lưới BHXH trong phạm vi toàn xã hội theo hướng: thực hiện BHXH cho mọi người lao động; mở rộng BHYT đến toàn dân. Triển khai đa dạng và linh hoạt cả loại hình BHXH, BHYT bắt buộc và BHXH, BHYT tự nguyện cho phù hợp từng nhóm đối tượng và thích ứng với từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội. Thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và quyền lợi của người tham gia BHXH, BHYT. Thực hiện thu- chi đúng, đủ và chi kịp thời theo các quy định hiện hành. Không ngừng nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh cho người có thẻ BHYT.  Bảo đảm mức sống của người về hưu gắn liền với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước. Hoàn thiện mô hình quản lý và nâng cao năng lực quản lý của bộ máy Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Trong quá trình triển khai các chính sách BHXH  cần coi trọng mối quan hệ trách nhiệm của ba bên: Ngành BHXH -  người lao động và người sử dụng lao động (doanh nghiệp). Vì vậy để bảo đảm thực hiện tốt chính sách BHXH, cần có các chế tài đủ mạnh, bảo đảm sự cưỡng chế cả về hành chính và kinh tế nếu một bên vi phạm quy trình này.

Chính sách BHXH, BHYT đã thật sự mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội to lớn nhưng phải được dựa trên cơ sở của sự ổn định và bền vững các quỹ BHXH, BHYT. Vì vậy, thường xuyên tiến hành tính toán cân đối, dự báo và điều chỉnh một cách kịp thời mối tương quan giữa mức đóng góp và khung quyền lợi được hưởng theo hướng từng bước nâng cao quyền lợi được hưởng cho phù hợp  khả năng đóng góp chung của các thành viên tham gia BHXH, BHYT và mức sống chung của toàn xã hội. Việc gia nhập WTO là điều kiện kinh tế cần thiết thúc đẩy nhanh chóng quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta và cũng là đòi hỏi khách quan phải mở rộng mạng lưới BHXH đến mọi người lao động, thực hiện BHYT toàn dân, thực hiện chế độ bảo hiểm và tăng cường công cụ điều tiết của Nhà nước bằng hoạt động BHXH trong hệ thống chính sách xã hội, đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Có thể bạn quan tâm