Bệnh thấp tim, các biến chứng và cách phòng ngừa

Bệnh thấp tim là gì?

Cơ chế gây bệnh thấp tim cũng chưa được biết rõ hết. Ngày nay đa số các nhà khoa học thống nhất với cơ chế là do có sự trùng hợp “rủi ro” giữa chất protein có trên vi khuẩn liên cầu với protein ở một số cấu trúc của cơ thể người, nên khi bị nhiễm liên cầu khuẩn cơ thể con người phản ứng lại bằng các kháng thể chống lại vi khuẩn này đã vô tình gây phản ứng viêm với các bộ phận trong cơ thể đặc biệt là các cấu trúc van tim, khớp, hệ thần kinh...

Thấp tim có thể xảy ra ở bất kỳ tuổi nào nhưng thường gặp nhất là trong độ tuổi từ 1-15. Bệnh thường gặp ở nữ giới hơn, tỷ lệ mắc bệnh gấp khoảng 2 lần nam giới.

Nguyên nhân quan trọng của bệnh thấp tim liên quan đến việc nhiễm một loại vi khuẩn gọi là liên cầu khuẩn beta tan huyết nhóm A. Quá trình diễn tiến của bệnh đầu tiên là do nhiễm liên cầu, thường là ở họng (viêm họng), sau đó vài tuần thì có thể có biểu hiện của thấp tim.

Không phải mọi bệnh nhân bị nhiễm liên cầu họng đều dẫn tới thấp tim mà chỉ có một số nhỏ dẫn tới thấp tim. Những yếu tố thuận lợi dẫn tới thấp tim là cơ địa bệnh nhân, tình trạng vệ sinh, điều trị không đầy đủ.

Trong giai đoạn cấp, thấp tim có thể gây viêm cơ tim cấp, rối loạn nhịp... có thể đe dọa tính mạng bệnh nhân. Vấn đề nguy hiểm nhất của thấp tim chính là các biến chứng cấp và đặc biệt là hậu quả mạn tính. Một số bệnh nhân sẽ để lại di chứng ở các van tim gây những bệnh lý van tim do thấp.

Hiện nay, thấp tim và các bệnh van tim do thấp ít gặp ở các nước phát triển, nhưng ở các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam vẫn là một vấn đề đáng quan tâm.

Những triệu chứng

Khi bệnh nhân bị thấp tim thì có thể xuất hiện thêm các triệu chứng sau:

- Đau và/hoặc sưng đỏ khớp với đặc điểm là hay gặp ở các khớp lớn như khớp gối và có tính chất di chuyển. Đau khớp thường đỡ nhanh sau vài ngày đến một tuần hoặc khi dùng aspirin hoặc các thuốc giảm đau khác và không để lại di chứng ở khớp.

- Đau ngực, khó thở, tim đập nhanh quá hoặc đôi khi chậm quá.

- Xuất hiện các ban đỏ hình vòng trên da đặc biệt quanh các khớp gọi là “hồng ban vòng” hoặc những ban nổi lên dưới da gọi là “ban nút”.

- Người bệnh có thể có những dấu hiệu múa vờn, múa giật, là những động tác múa, vung tay chân một cách vô thức...

Để chẩn đoán được bệnh thấp tim cần dựa trên một số tiêu chuẩn về lâm sàng và xét nghiệm trên nền tảng của một bằng chứng nhiễm liên cầu beta tan huyết nhóm A. Tuy nhiên, không phải bệnh nhân nào bị thấp tim cũng có đầy đủ các dấu hiệu lâm sàng hoặc xét nghiệm như đã mô tả trên.

Các biến chứng thường gặp

Trong giai đoạn cấp, bệnh nhân có thể bị ảnh hưởng do viêm cơ tim dẫn tới suy tim cấp hoặc rối loạn nhịp tim đôi khi đe dọa tính mạng bệnh nhân. Bệnh nhân cũng thường bị đau khớp nhiều có thể kèm theo sưng nóng đỏ. Tuy vậy, viêm khớp này không để lại di chứng đáng sợ nào. Những ảnh hưởng đến não cũng đáng sợ với tổn thương hệ thống ngoại tháp gây biểu hiện múa vờn, múa giật. Rất may là các tổn thương trên não đa số hồi phục không để lại di chứng.

Vấn đề quan trọng nhất của thấp tim là sự tái phát và tiến triển dẫn đến những tổn thương không phục hồi các van tim, khi đó gọi là bệnh tim do thấp. Các tổn thương này ngày một nặng gây ra những ảnh hưởng nặng nề cho bệnh nhân về chất lượng cuộc sống cũng như tuổi thọ.

Các bệnh tim do thấp hay gặp nhất là hẹp van hai lá, hở van hai lá, hở van động mạch chủ... hoặc phối hợp tổn thương các van tim. Hậu quả là, nếu các bệnh van tim do thấp này (nếu không được điều trị kịp thời) là suy tim, hoặc bệnh nhân cũng có thể có các biến chứng cấp trong quá trình mang bệnh như tắc mạch, phù phổi cấp, rối loạn nhịp tim...

Phòng và điều trị

Thấp tim có thể hoàn toàn phòng ngừa được để tránh dẫn tới bệnh van tim do thấp hoặc có thể phòng tránh được sự tiến triển đến bệnh nặng lên. Việc phòng bệnh bao gồm: phòng bệnh cấp một hay chính là cách giáo dục sức khỏe, nâng cao mức sống, giữ vệ sinh... để tránh nhiễm liên cầu; chế độ phòng ngừa cấp hai là khi biết bị thấp tim thì cần tiêm phòng thấp đều đặn để có thể tránh những biến chứng trầm trọng đến van tim.

Nhiều bệnh nhân bị thấp tim mà triệu chứng bệnh kín đáo hoặc dễ bỏ qua nên không chẩn đoán được bệnh để có kế hoạch phòng ngừa kịp thời và đầy đủ.

Hai chiến lược quan trọng điều trị bệnh thấp tim trong giai đoạn cấp:

- Dùng kháng sinh kịp thời để loại trừ liên cầu khuẩn ra khỏi cơ thể và để ngăn chặn tái phát thấp tim (cơ hội của việc tổn thương đến van tim). Thực tế, thuốc kháng sinh để điều trị bệnh thấp tim khá đơn giản, các bác sĩ sẽ dùng penicilin như là thuốc đầu tay hoặc một số loại kháng sinh khác khi bệnh nhân bị dị ứng với penicilin. Thông thường, bệnh nhân cần được tiêm phòng thấp tim sau đó bằng penicilin chậm hằng tháng hoặc mỗi 3 tuần trong vài năm sau đó tùy chỉ định dựa trên tình trạng bệnh cụ thể để phòng ngừa tái phát thấp tim.

- Các thuốc điều trị chứng trong giai đoạn cấp: các thuốc giảm viêm, đặc biệt là aspirin được dùng để giảm viêm khớp. Nếu bị viêm tim nặng thì có thể dùng thuốc nhóm corticoid (như prednisolon).