Bất bình đẳng giới vẫn lớn trong thu nhập, việc làm

Báo cáo “Triển vọng việc làm và xã hội thế giới – Xu hướng cho phụ nữ” của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) vừa công bố cho thấy, Việt Nam thuộc nhóm quốc gia có tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động cao nhất thế giới, đang đóng góp rất lớn vào sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Tuy nhiên, lao động nữ (LĐN) còn gặp rất nhiều rào cản trong việc làm và thu nhập.

Báo cáo cho thấy, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của phụ nữ Việt Nam là 72%, cao hơn mức trung bình thế giới (49%), mức trung bình của khu vực châu Á và nhóm các nước thu nhập trung bình thấp. LĐN tại Việt Nam chiếm 48,4% tổng lực lượng lao động. Tuy nhiên tỷ lệ nữ giới tại Việt Nam có việc làm thấp hơn 9% so với nam giới. Hiện có 7,8 triệu lao động nữ đang làm việc trong khu vực phi chính thức với điều kiện lao động không bảo đảm. Tỷ lệ LĐN trong khu vực phi chính thức phải làm công việc dễ bị tổn thương lên tới 59,6%, trong khi đó ở nam giới là 31,8%. Báo cáo cũng chỉ ra, LĐN đang ở vị thế thấp hơn nam giới trong cơ cấu việc làm. Phụ nữ chỉ chiếm 26,1% các vị trí lãnh đạo nhưng lại đóng góp tới 52,1% nhóm lao động giản đơn và 66,6% lao động gia đình. Điều đó cho thấy vẫn còn rất nhiều rào cản đối với phụ nữ trong việc tiếp cận các cơ hội phát triển nghề nghiệp so với nam giới.

Khi DN cắt giảm chi phí, lao động, đối tượng mà chủ doanh nghiệp hướng tới đầu tiên thường là LĐN với nhiều lý do sức khỏe không bảo đảm, không có điều kiện nâng cao tay nghề, dẫn tới năng suất lao động thấp. Báo cáo cũng cho biết, có tới 57,3% số LĐN thất nghiệp ở nhóm lao động chưa qua đào tạo và 50,2% trong nhóm đã được đào tạo nghề. Đáng chú ý, tỷ trọng LĐN trong nhóm thất nghiệp có trình độ đại học lên tới 55,4%. Điều đó cho thấy khả năng tiếp cận việc làm đối với LĐN khó khăn hơn nam ở hầu hết các nhóm trình độ, nhất là nhóm thấp nhất và nhóm cao nhất. Thực tế tại Việt Nam cũng cho thấy, LĐN phải làm việc trong điều kiện chất lượng thấp hơn lao động nam. Chỉ có 49,8% LĐN trong nhóm lao động làm công ăn lương có ký kết hợp đồng lao động với người sử dụng lao động, trong khi ở nam giới là 58,8%. Ngoài ra, trong khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài, lao động nam có tỷ lệ ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn lên tới 73,91% trong khi với LĐN chỉ là 67,67%.

Các chuyên gia về lao động cho rằng, bất bình đẳng giới không chỉ gây tổn thương, thiệt hại về tinh thần, vật chất cho chính LĐN mà còn có thể ảnh hưởng tới gia đình họ và toàn xã hội. Theo một khảo sát năm 2017 trong ngành lắp ráp điện tử tại Bắc Ninh nơi LĐN chiếm tới 90% lực lượng lao động. Đã có 71,8% NLĐ phải làm thêm trên 30 giờ/tháng và 54,5% đang làm thêm hơn 45 giờ/tháng. Hiện tại, thu nhập từ làm thêm giờ chiếm tới 32% tổng thu nhập và hơn 50% lương cơ bản trung bình của lao động trong ngành điện tử. Nói cách khác, nếu không làm thêm giờ LĐN không thể trang trải các nhu cầu sinh hoạt thiết yếu.

Theo một nghiên cứu năm 2015 của Oxfam Việt Nam, các LĐN đang làm việc tại các khu công nghiệp, khu chế xuất là lao động di cư. Chính vì vậy, lao động di cư và con cái họ gặp khó khăn trong tiếp cận các dịch vụ an sinh xã hội cơ bản. Cụ thể có tới 71% NLĐ di cư không tiếp cận được tới dịch vụ y tế công tại nơi đến. Và 21,2% trẻ trong độ tuổi từ 6 đến 14 tuổi theo cha mẹ sinh sống tại nơi đến không đi học. Đây là con số đáng báo động về tình trạng trẻ không tiếp cận được hệ thống giáo dục. Chỉ có 7,7% trẻ em di cư đi nhà trẻ công lập, và 12% trẻ em di cư đi học trường mẫu giáo công lập. Còn lại phụ thuộc các nhà trẻ, mẫu giáo tư nhân hoặc các nhóm giữ trẻ tại gia đình.

Bà Đê-bô-ra Grin-phiu, Phó Tổng giám đốc ILO phụ trách chính sách cho biết, mặc dù các chính sách về bình đẳng giới tại Việt Nam đã đạt được nhiều tiến bộ và có nhiều cam kết nhằm cải thiện hơn nữa tình trạng bất bình đẳng giới, tuy nhiên, triển vọng về việc làm cho phụ nữ còn lâu mới có thể bình đẳng so với nam giới. Bên cạnh đó, các chuyên gia lao động cho rằng những thách thức và trở ngại dai dẳng đối với phụ nữ sẽ làm giảm khả năng các xã hội xây dựng lộ trình tăng trưởng kinh tế cùng với phát triển xã hội. Do đó, xóa bỏ khoảng cách giới trong thế giới việc làm cần được ưu tiên hàng đầu nếu chúng ta muốn đạt được bình đẳng giới và trao quyền cho tất cả phụ nữ và trẻ em gái vào năm 2030.

Có thể bạn quan tâm