Hà Nội một góc nhìn

Bàn tay sưởi ấm đêm đông

Nắng hửng lên từ sáng sớm, nắng rạng rỡ ban trưa, nắng trải tràn lan, miên man, phóng khoáng. Ngỡ như đang giữa mùa hè thừa thãi nắng. Thế mà đi giữa nắng, phơi mình trong biển nắng mênh mang, vẫn co ro, tê tái. Hai bàn tay giá buốt, tê cóng. Đôi chân lạnh cứng trong tất dày chẳng khác chân trần đi trên đất lạnh. Khi nắng tãi trên ngọn cỏ, lá cây, sương tan dần khiến trời đất trở nên rét buốt như cái lạnh thấu xương từ núi đá phả ra tận trên miền núi đổ về. Cuối năm, sương muối phủ trắng cùng trời cuối đất, thấm qua nhà cửa. Quần áo ấm ních đầy người, khăn len quấn chặt, găng tay da, giày cao cổ giữa nhà cao, cửa rộng, giữa phố xá dù ấm hơi người và nóng hổi xe cộ, có ai để mắt

Khi trời đổ bóng tối dày đặc, gió rét ào ạt dồn người ta vào những hàng quán ăn đêm ấm nóng, ngào ngạt các món đặc sản. Nhưng cũng khi đó, trên những đường phố vắng lặng bóng người, thưa thớt xe cộ, mới thấy những tốp người cắm cúi, âm thầm len lỏi vào những góc khuất, những nơi tối tăm nhất. Ở đó có những con người dường như không tên, không người thân thích, cũng không có nơi trở về. Thân cô, thế cô, lang thang, vạ vật. Họ không may mắn được nhập vào đội quân lao động ngoại tỉnh hay lao động nông nhàn, kiếm sống bằng cơ bắp, vắt đến kiệt giọt mồ hôi cuối cùng. Rồi khi năm cùng tháng tận, cũng có một nắm tiền nhàu nát, giắt lưng mang về cho chồng con ở quê. Mà đây là những người đã “cắm rễ” sâu trên vỉa hè, góc chợ, gầm cầu… Sống tạm bợ nhưng là vĩnh viễn vất vưởng, mãi mãi giật gấu, vá vai. Chưa một bữa được ăn no. Chưa được mặc tấm áo dày, nói gì tới hơi ấm từ bàn tay, tình người. Rồi có một đêm đông, như bao đêm rét mướt đã đi qua trong cuộc đời không nhà, không nơi nương tựa. Đột nhiên, họ nhận được những suất cơm ấm nóng, những gói xôi dẻo thơm từ những chàng trai, cô gái đội tình nguyện. Những “người dưng, nước lã” chẳng hề biết mặt, biết tên, tự tay mặc cho mình chiếc áo ấm, đôi tất dày dặn. Dù cố cầm lòng, mắt ai nấy đều ứa lệ, mừng tủi. Họ chưa hề ngửa tay xin ai một đồng bố thí. Vẫn đủ lòng tự trọng đổ mồ hôi để nhặt nhạnh từng đồng lẻ, chẳng đến mức là người ăn xin, cúi gằm mặt. Nhưng những suất cơm, chiếc bánh mỳ, gói xôi và những tấm chăn được may từ hàng chục mảnh vải, hay những tấm áo cũ mà thơm mùi nắng, mùi bột giặt, thì không ai đắn đo, từ chối. Bởi người ta nhận ra hơi người ấp ủ trong đó. Hơi ấm rất dễ cảm nhận với những người quanh năm thiếu và thèm khát một bàn tay ấm áp, một ánh mắt cảm thông, xót xa. Một đời lạnh lẽo, cô đơn, những đêm đông dài hun hút rét tím tái dường như không còn đọng lại trong tâm trí. Chỉ còn giữ lại hơi ấm bàn tay và những tấm chăn, chiếc áo khoác…

“Thương người như thể thương thân”, câu nói cửa miệng, nghe mãi tưởng đã nhàm, giờ đã thấy tận mắt. Đêm Giáng sinh, những đôi lứa nắm tay nhau đổ về những nhà thờ, chen chúc, đông đúc. Những ông già Nô-en “giả dạng” tất bật mang quà cho trẻ nhỏ ngóng chờ trong những tổ ấm. Chợt thấy dăm tốp sinh viên tình nguyện, lầm lũi, lặng lẽ mang “quà” cho người lớn vô gia cư. Lại chợt nhớ đến những nam thanh nữ tú “sành điệu” dắt nhau lên Sa Pa đón tuyết rơi, hò reo chụp ảnh kỷ niệm nhớ đời. Mùa đông nào cũng lặp lại cảnh đó, người ta mong cho trời rét đậm, rét hại, tuyết phủ trắng đất trời để được ném tuyết trong niềm vui bất tận. Hầu như không một ai để mắt tới những đứa trẻ chân đất trên băng giá, phong phanh tấm áo mỏng dính, xúm quanh đống lửa đang tàn lụi. Cũng chẳng mấy người nhìn thấy những thửa rau táp ngọn, héo quăn quắt như bị thiêu đốt vì sương muối cuối năm. Người xưa bảo, tình người là vị muối làm cho cuộc đời mặn mà, đậm đà. Nếu thứ muối ấy trở nên nhạt nhẽo, hỏi lấy gì để thay thế?

Có thể bạn quan tâm