Núi liền núi, mầu xanh của những nương chè, cà-phê trải dài như tiếng khèn người Tây Bắc.
Nhật ký hành trình mưu sinh
Anh cán bộ văn hóa xã Lộc Thành (Bảo Lâm, Lâm Ðồng) tên Thành đưa tôi vào bản Mông. Dừng ở lưng chừng núi Chúa phóng tầm mắt ra xa, anh Thành bảo: Dưới kia là bản Mông đó! Ðáng ra phải gọi là thôn 10C (thuộc xã Lộc Thành), nhưng gọi vậy ít ai biết lắm.
Người đầu tiên tôi gặp là cô giáo ở Trường làng Mông sau tiếng trống tan trường. Cô bảo, tên mình giống nhân vật trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ ấy. Là Mỵ? - Tôi hỏi. Ðúng rồi, nhưng mà Lý Thị Mỵ. Cô Mỵ tốt nghiệp Trường Sư phạm Cao Bằng năm 1991, đã quyết định lên vùng cao ở quê dạy học. Sang năm 1992, cô "xuống núi" miền Tây Bắc để lên cao nguyên Lâm Ðồng xây dựng hành trình cuộc sống mới khi tròn 22 tuổi. Cô kể: Ba năm đầu mới vào, mình cũng đi làm thuê cùng bao người khác trong làng để kiếm sống. Học sư phạm mà không được đứng lớp, buồn lắm! Cũng may, đến năm 1995, làng đã dựng được căn nhà lá để làm lớp học và đã tập hợp được 50 em học sinh, tuổi tác thì lẫn lộn, từ năm tuổi, đến sáu tuổi, 10 tuổi... có đứa không đủ tuổi cũng khai cho đủ tuổi để được mở lớp học. Học ghép từ lớp 1 đến lớp 5. Giờ thì vui lắm rồi, trường đã được xây, cấp 1, cấp 2 có cả. Vậy là con cháu của người Mông, người Tày, người Dao, hay người Cơ Ho... đã được học hành.
Nhìn cô Mỵ, ngắm những lũ trẻ đang mải chơi trên sân trường, những đồi chè, cà-phê ngút ngàn... tôi thấy hình ảnh một vùng quê ấm áp và bình yên.
Tôi quay sang anh Thành hỏi: Trưởng thôn là ai? Trước đây là anh Thào Hùng Khải, người được xem là thủ lĩnh của bản Mông. - Ừ, hay quá. Tôi nói. Anh Khải bây giờ là Phó ban Mặt trận xã, Bí thư chi bộ thôn. Trong căn nhà mới xây của cô con gái đầu, giữa những người đồng tộc, đồng hương đã gắn bó với anh trên hành trình "thiên di" gian khó nhưng thật nhiều cảm xúc, Bí thư chi bộ họ Thào kể cho chúng tôi nghe những câu chuyện về nơi chôn rau cắt rốn, về quá trình "tái sinh" trên vùng quê mới.
Xã Lang Môn, huyện Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng - quê gốc của anh là vùng quê thuộc chiến khu thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Nơi đó có núi Lũng Sao, Lũng Nặm, có dãy Lam Sơn mà Bác Hồ từng hoạt động từ những ngày cách mạng còn trong trứng nước. Nơi đó có dòng sông Vàng chảy qua vùng Nà Nội bình yên. Với vẻ trầm buồn khi ký ức vọng về, anh Khải nói rằng, quê mình đẹp lắm, nhưng cái đói, cái nghèo thì cứ đeo bám triền miên. Nguồn sống chính của đồng bào Mông là làm nương rẫy du canh, cây lương thực chính là ngô và lúa nương. Có khi còn phải trỉa ngô theo những lèn đá, người dân phải ăn mèn mén quanh năm. Cái nghèo là thế, nhưng từ bao đời nay những dòng họ Thào, Lý, Hoàng, La... của Nà Nội quê mình vẫn gắn bó với dòng sông Vàng và ủng hộ cách mạng.
Quê anh hùng vĩ thế sao lại vào đây? - Tôi hỏi. Mình là đàn ông mà, phải bươn chải chứ, cớ sao mà phải cam chịu cảnh đói, nghèo. Và thế là anh Khải bắt đầu hành trình mưu sinh cùng với những đồng hương của mình...
Có năm người cùng tham gia chuyến lần tìm vùng đất mới đầu tiên. Tôi còn nhớ như vừa mới hôm qua. - Anh Khải nói. Ðó là 4 giờ chiều ngày 29-1-1991 chúng tôi đặt bước chân đầu tiên lên mảnh đất Tây Nguyên tại huyện Bảo Lộc (giờ là thành phố), sau đó đi xuống huyện Cát Tiên... nhưng thất bại. Những người bạn nản chí bỏ về, một mình đơn độc với 76 nghìn đồng để quay về Bảo Lộc quyết tìm cho được chốn mưu sinh, lập nên nghiệp mới. Và may mắn đã mỉm cười. Vùng đất trắng rừng dưới chân núi Chúa là nơi họ chọn làm quê hương mới sau những ngày khăn gói lần đường vào đây khảo sát, cắm bản. Hơn 100 nhân khẩu, cả già lẫn trẻ trên hai chiếc xe ô-tô giã biệt núi rừng Tây Bắc. Trên chuyến xe "lịch sử" ấy, họ mang theo cả khát vọng của một cuộc đổi đời.
Những ngày đầu trên vùng đất mới với bao sự lo toan. Anh Khải trầm buồn: Có nhiều lúc khó quá chúng tôi nản chí và có người đã muốn quay về quê cũ. Nhưng rồi, với sự nỗ lực của mỗi người, mỗi gia đình và nhất là sự cưu mang, đùm bọc của đồng bào các dân tộc anh em trên quê mới, chúng tôi đã vượt qua những tháng ngày gieo neo.
Ông Nguyễn Văn Dỉa còn nhớ như in rằng, chúng tôi bắt đầu đặt chân lên đất Lộc Thành vào rạng sáng 27-1-1992. Lạ đất, lạ người, cộng với cái se lạnh của sương sớm làm chúng tôi nao lòng. Ngoài sự hỗ trợ, giúp đỡ của chính quyền xã, thật may đồng bào hai miền gặp nhau trong sự đồng cảm, sẻ chia. Người Mông chúng tôi không thể nào quên ân tình của đồng bào Cơ Ho bản địa, nhất là các bác, các anh như K’Toàn, K’Mạnh, K’Gíp... đã vận động bà con nhường bớt phần đất đang canh tác cho người Mông lập bản mới.
Ông Dỉa kể, nơi chúng ta đang ngồi đây ngày xưa là vùng núi trọc, không cây cối gì đâu, nếu có rừng thì bọn mình phạm luật đấy. Hồi đó, vùng này ít nhìn thấy người, cọp còn xuống núi kiếm ăn, muỗi vắt như trấu; dân mình sốt rét triền miên, tuần nào cũng phải thay nhau cáng người ra Bệnh viện Bảo Lộc, đi bộ gần 20 cây số. Mọi thứ khó đã đổ dồn về đây, người Mông đã có lúc nản chí. Những người khai phá như anh Khải, ông Dỉa phải trực tiếp đi động viên, cộng với cái nghĩa, cái tình của người Cơ Ho đã níu chân họ lại bám trụ bên chân núi Chúa...
Nối dài mầu xanh dưới chân núi Chúa
Hồi đó vùng này hoang vu lắm, làm gì có đường mà đi. Anh Khải kể, hồi đó ở đây y như quyển vở trắng ấy, tôi phải tự lập sơ đồ mất hai ngày, sau đó huy động toàn dân làm. Thời điểm đó là tháng 2-1993, mùa khô mình mới đi thực địa. Dốc thì né, hay sạt lở thì tránh. Mình làm dấu rồi chia theo gia đình từng đoạn. Ðầu tiên làm đủ cái chân đi đã. Ngày lại ngày, con đường "đủ cái chân đi" đã rộng dần và kéo dài đến từng con ngõ.
Khó thì khó thật, nhưng bản đã có đường, đã có những mái nhà phên nứa để che nắng, che mưa, giờ còn lo cái ăn, cái mặc. Người Mông quen với cây bắp, với mèn mén cho nên họ chủ động phủ mầu xanh của loài cây lương thực dễ trồng ấy lên những đồi hoang, chủ yếu để cứu đói, để tồn tại. Dân đã có mèn mén để ăn, Thào Hùng Khải vận động bà con làm thêm lúa nước, đào ao thả cá, nuôi lợn, nuôi gà... ai khá hơn thì bắt đầu học cách trồng cà-phê, chè. Vừa trồng trọt, vừa vượt núi ra xã làm thuê để kiếm tiền mua cây giống, mua phân, nhưng chủ yếu là học tập kinh nghiệm trồng cây công nghiệp. Cứ thế, chẳng bao lâu, sức sống mới đã lan tỏa đến những nếp nhà, không còn ai nhắc tới chuyện quay về quê cũ nữa.
Khi đã bán hết tài sản, ruộng vườn ở quê chỉ được vỏn vẹn một triệu đồng và quyết tâm đi khai phá, thủ lĩnh làng Mông Thào Hùng Khải toan tính, vào vùng quê mới thì phải có bốn yếu tố: Ý chí, y tế, công cụ sản xuất, trường học. Và anh đã có cô giáo Mỵ, có người anh vợ là bác sĩ kinh nghiệm 15 năm công tác. Ý chí của người Mông thì được hun đúc qua các thời kỳ cách mạng và một ngôi trường mái lá "tự lập" mọc lên giữa "thung lũng hoang vắng", làm cho mỗi sáng tinh sương thêm vui bản, vui làng. "Tôi nghĩ, nếu có ngôi trường làm cơ sở bước đầu ở đây thì Nhà nước sẽ quan tâm đầu tư. Là thôn bản cùng lắm cũng phải có con đường, hai là có đèn sáng. Chứ sâu trong này ai đầu tư cho mình cái trường được" - Anh Khải nói. Và đến hôm nay, họ đã có... Giáo viên đã lên đến 32 người, trường mái tranh xưa giờ là kỷ niệm, học sinh đã được tiếp cận với máy vi tính, nhà nhà có ti-vi, xe máy, có cái điện thoại để lâu lâu gọi về cố hương. Ðường lớn đã đến tận nhà, hình ảnh ngồi lưng ngựa ngày còn ở Lang Môn vượt rừng, xuống núi mua mắm, muối ở chợ Nà Bao năm ngày một phiên đã vào quá vãng.
Chờ mãi mới gặp trưởng thôn mới Nông Văn Cửu (người Nùng). Lục vội ký ức, anh cho hay: Mình từ Na Rì - Bắc Cạn vào đây từ năm 1996. Thú thực, ở đây phát triển hơn quê mình nhiều, nhiều lắm! Bởi thế cho nên hằng năm, bà con ở Tây Bắc vẫn kháo nhau câu chuyện dưới chân núi Chúa mà đưa nhau vào. Từ bảy hộ người Mông ngày đầu mở đất, đến nay thôn mình đã có 181 hộ, hơn 800 nhân khẩu, với chín dân tộc anh em sống chan hòa dưới chân núi này. Lật cuốn sổ tay, anh Cửu cho biết: Hiện nay, diện tích canh tác chè, cà-phê của thôn đã hơn 800 ha, hộ ít thì cũng đến 1,2 ha để làm ăn, sinh sống; trâu, bò hơn 50 con. Thu nhập bình quân khoảng 25 triệu đồng/người/năm, ít có con em bỏ học. Có nhà đã có ô-tô, trong làng có năm máy cày và nhà xây nhiều lắm. Nhớ ngày mới vào, sinh đứa con đầu lòng không có gì để làm tã lót, giờ thì...
Anh tranh thủ đưa tôi vòng quanh làng bản, ngắm sự đổi thay trên từng thớ đất, quả đồi của vùng đất mới. Ðây là nhà anh Trịnh Văn Thu (người Dao), lập nghiệp ở đây cùng năm với mình đấy! - Anh Cửu nói. Riêng cây công nghiệp của hộ này, một năm cũng được 150 triệu đồng. Kia là nhà anh Hoàng, con ông Dỉa... "Biệt thự" mới xây đấy! Dừng ở cổng chào vào Thôn văn hóa 10C - người ta quen gọi là làng Mông, tôi gặp chị Ðào Thị Vân (người Kinh), được nghe chị kể về mối tình của cô gái Thái Bình với chàng trai Tày, quê Bắc Cạn. Thật đẹp và đằm thắm như vùng quê mới dưới chân núi Chúa.
Nơi đây thật sự là mảnh đất lành, mà những "cánh chim" di trú đến từ phương bắc đã đặt chân bình yên trên quê hương mới.
Bao đời qua, dưới chân ngọn núi ấy là quê hương của người Châu Mạ, Cơ Ho bản địa Tây Nguyên. Thêm những người anh em đến từ tứ xứ miền quê, từ nhiều dân tộc, làm cho vòng xoang dưới chân núi Chúa thêm dài, thêm rộng, ngày càng thắm tươi hơn.
Cùng với mầu xanh ngút ngàn của chè, cà-phê, trên vùng quê ấy đã quyện hòa sắc mầu văn hóa của các dân tộc anh em. Ngoài các phong tục truyền thống của mình, những người con dưới chân núi Chúa đã cùng nhau trẩy hội mùa xuân (tổ chức hằng năm vào ngày 6 tháng Giêng) mừng mùa vụ tốt tươi. Anh em Tày, Nùng góp vui với hội Lồng Tồng, người Mông thì có trò ném còn giao duyên... trong điệu chiêng huyền diệu của người Cơ Ho, Mường; trong điệu then truyền thống của người Tày và cùng người Nùng cất cao điệu soong hao tình tứ. Tiếng chiêng, tiếng khèn cứ vang mãi đến tận đỉnh núi Chúa, hòa quyện vào nhau, cùng lên rẫy, cùng xuống nương và cùng vui ngày mới.
Hai mươi năm có lẻ cùng nhau chia ngọt, sẻ bùi dưới chân núi Chúa, giờ đây những người con sinh ra trên vùng quê mới đã được đắm mình với điệu khèn, điệu then dặt dìu, tình tứ trong sự đầy đặn từng ngày của bản làng. Chia tay bản Mông, xin ghi lời hẹn với Thào Hùng Khải, với cô giáo Mỵ, sẽ lại gặp nhau vào hội xuân năm tới, sẽ cùng nhau uống bát rượu ngô trên quê mới Nam Tây Nguyên.