Bài học từ khu công nghiệp Lễ Môn

Chọn đất gửi công trình

Nói đầy đủ thì tỉnh Thanh Hóa có tám dự án kinh tế xây dựng tám KCN, đó là KCN Lễ Môn, Ðình Hương (TP Thanh Hóa), KCN Bắc Hoằng Long (Hoằng Hóa), KCN Nghi Sơn (Tĩnh Gia), KCN Bỉm Sơn, KCN Lam Sơn (Thọ Xuân), KCN Vân Du (Thạch Thành), KCN Tân Thanh (Như Thanh), tổng diện tích 4.700 ha. Trong đó, ba KCN Lễ Môn, Ðình Hương, Nghi Sơn được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thời kỳ 1996-2010 có diện tích 2.350 ha. Riêng KCN Lễ Môn có diện tích 87,61 ha phía đông thành phố ven trục đường tỉnh số 8 xuôi Sầm Sơn.

Khi chọn mặt bằng KCN này, lãnh đạo và các ngành chức năng tỉnh Thanh Hóa hy vọng vào các yếu tố thuận lợi giao thông vận tải, trong đó: cảng sông Cửa Hới cách 3 km, đường bộ sẽ đón đoạn 10 km cao tốc quốc lộ 1A từ nam cầu Hoằng Long, xuyên vào giữa KCN, chạy xuống cầu Quán Nam nối quốc lộ 1A, đường sắt, cách ga Thanh Hóa 4,5 km. Ngoài ra, KCN nằm ở ngoại vi thành phố sẽ là lý tưởng cho môi trường sản xuất, kinh doanh và sinh thái.

Sau 5 năm đi vào hoạt động KCN đã có 24 dự án trong nước, hai dự án đầu tư nước ngoài, 75% diện tích mặt bằng được các DN thuê, trong đó 14 DN đã đi vào sản xuất, kinh doanh từ một đến bốn năm, thu hút gần 3.000 lao động. So với dự kiến lấp đầy công trình trên mặt bằng KCN phải mất chín năm thì tốc độ xây dựng những năm qua là khá nhanh bởi một tỉnh như Thanh Hóa kinh tế chủ yếu vẫn là nông nghiệp.

Trong KCN hiện nay, cơ cấu đầu tư các ngành sản xuất đa dạng: thủy sản đông lạnh xuất khẩu, phân bón NPK, gạch ceramic, giày thể thao xuất khẩu, vật liệu xây dựng cao cấp, chế biến tinh bột ngô, chế biến cà-phê, chè, thức ăn gia súc, chiết nạp ga, điện cơ... Phần lớn quy mô DN vừa và nhỏ, vốn đầu tư từ hơn 5 đến 68 tỷ đồng giai đoạn đầu, với tổng mức đã thực hiện là 299 tỷ 840 triệu đồng.

Các DN đã đi vào sản xuất, bước đầu một số DN đạt doanh thu khá, người lao động có mức thu nhập từ 600 nghìn đồng đến một triệu đồng/người/tháng. Công ty xuất nhập khẩu thủy sản, năm 2004 đạt doanh thu 7,2 triệu USD, so với năm 2003 tăng 35%. Công ty phân bón Thần Nông, giá trị sản xuất tăng 39% so với năm đầu. Công ty chế biến tinh bột ngô đã đạt 90% công suất... Tuy nhiên, trong số 14 DN đưa vào hoạt động, sản xuất thì hơn 50% số DN lỗ, số DN còn lại hiệu quả sản xuất đạt thấp, đời sống công nhân gặp khó khăn.

Những ách tắc chưa tháo gỡ

Ðầu năm nay, chúng tôi trở lại KCN Lễ Môn, quan sát thực tế giờ ca sản xuất trên các dây chuyền công nghệ, gặp một số công nhân, trò chuyện với Giám đốc Nhà máy gạch ceramic, một trong số DN đi vào sản xuất sớm của KCN. Nhà máy có công suất một triệu m2 gạch lát/năm, thiết bị công nghệ Italy. Ðiều đáng mừng là nhà máy đã đạt 100% công suất thiết kế từ  năm 2002, thậm chí còn vượt 10% công suất do sử dụng giờ hữu ích hợp lý.

Thế nhưng, đi vào sản xuất bốn năm thì ba năm sản phẩm bị ứ đọng tới 20 - 25%. Vài năm trước, khách hàng cho rằng mẫu mã, cỡ kích một phần chưa phù hợp người sử dụng, giá bán cao hơn các cơ sở sản xuất trong nước. Giữa mùa xây dựng mà sản phẩm chất chồng ra cả ngoài tường rào nhà máy. Hỏi ra, được biết chi phí sản xuất quá lớn, giá thành cao, giá bán cao, làm cho khách hàng "lắc đầu".

Từ giữa năm 2004, nhà máy tìm mọi biện pháp để giảm chi phí sản xuất, kể cả cải tiến một phần thiết bị, tận dụng nhiệt sấy sản phẩm, làm lợi mỗi tháng hơn 100 triệu đồng; "bóp bụng" điều chỉnh giá bán buôn xí nghiệp để giảm chi phí. Và quan trọng hơn là bổ sung thiết kế mẫu mã, mầu sắc thu hút khách hàng. Cho đến nay, sản phẩm ứ đọng giảm  còn khoảng 10 - 15%. Tuy nhiên, đó chỉ là giải pháp giảm nhẹ mức hao tổn chi phí sản xuất mà thôi.

Giám đốc Trịnh Huy Hưng cho biết: chi phí sản xuất cao do thiết bị của nhà máy chỉ có một dây chuyền sản xuất đốt bằng gas. Những năm qua, giá xăng, dầu, gas tăng, nhiên liệu sản xuất ở đây tăng gấp ba, bốn lần so với các cơ sở ceramic trong nước. Nghĩa là, để có 1 m2 sản phẩm gạch lát phải chi phí từ 19 đến 20 nghìn đồng; trong khi các nơi khác chỉ mất 4.600 đến 5.500 đồng. Vậy nếu đầu tư bổ sung một dây chuyền đốt dầu hay than, phải cần bao nhiêu tiền? Ðược trả lời, cần ba - bốn tỷ đồng. Các chị Nhung, Lan, công nhân nhà máy cũng cho biết: đã vào đây làm việc ba năm, lương tháng đạt từ 600 đến 750 nghìn đồng/người. Ðáng tiếc là mức lương đó sẽ còn cao hơn nữa nếu hơn ba năm qua nhà máy kịp thời bổ sung, lắp đặt hợp lý thiết bị sấy đốt.

Với nhà máy giày thể thao xuất khẩu, những năm qua, khi đi vào sản xuất thì khá lao đao, vất vả, bởi ngành giày trong nước qua nhiều năm biến động giá, khủng hoảng thừa. DN giày thể thao Thanh Hóa có lúc tưởng chừng khó đứng dậy qua nợ nần vốn đầu tư kéo dài và thua lỗ trong sản xuất.

Cho đến năm 2003, thực hiện sắp xếp lại các DN quốc doanh theo các nghị định của Chính phủ, nhà máy giày thể thao chuyển đổi một bước, cho Ðài Loan thuê sản xuất thời gian đến năm 2007 sẽ trả lại cho chủ DN tiếp tục điều hành. Qua bước sắp xếp này, nhà máy đi vào ổn định sản xuất nhưng mức thu nhập của người lao động thấp. Ban quản lý các KCN cũng cho biết, ba năm qua, Nhà máy chưa nộp thuế. Trong khi quy mô DN này thuộc loại vừa. Toàn bộ thiết bị công nghệ của Hàn Quốc, công suất 1,5 triệu đôi giày thể thao...

Trong số DN hoạt động sản xuất tại KCN Lễ Môn có bảy DN hiệu quả đạt thấp, đó là: sản xuất tấm lợp mạ kim loại mầu, chế biến cà-phê, kho giống lúa lai F1, sản xuất thủy tinh pha lê, gạch ceramic, giày thể thao, chế biến nông sản xuất khẩu. Trong đó, bốn DN khi đầu tư xong không kịp thời đưa vào hoạt động, không trả được tiền thuê mặt bằng.

Bằng cách nào để tháo gỡ bế tắc?

Lại cũng chính một số giám đốc có tâm huyết, có ý thức trách nhiệm nhưng do thụ động từ nhiều phía, nay vẫn nhìn vào sự thật để nói những điều không thể dối lòng mình, để cùng cấp trên tháo gỡ vướng mắc trong sản xuất. Ví như ngay lập tức, càng sớm càng tốt, đầu tư một thiết bị đốt dầu vừa đồng bộ máy móc, vừa hợp lý thay ga trong giai đoạn này đối với Nhà máy gạch ceramic thì không phải quá khó khăn về kỹ thuật và không lớn lao gì về tài chính mà Thanh Hóa không làm được. Trong khi, có lúc lãng phí hàng chục tỷ đồng, nay chỉ ba - bốn tỷ đồng cải tạo bổ sung thiết bị cho một cơ sở sản xuất công nghiệp quy mô vừa, làm ra một ngành hàng giá trị doanh thu hàng trăm tỷ đồng/năm chẳng lẽ bỏ qua?

Ðối với một nhà máy thủy sản đông lạnh xuất khẩu, tuy đạt kim ngạch xuất khẩu 7,2 triệu USD, trở thành con chim đầu đàn trong KCN Lễ Môn, nhưng cũng mới đạt khoảng 40% năng lực chế biến. Nếu lo đủ nguyên liệu để nhà máy hoạt động đủ công suất thì kim ngạch xuất khẩu 19 - 20 triệu USD là việc làm cầm chắc trong tay. Giám đốc Võ Duy Sang khẳng định như vậy. Nhưng đối với một nhà máy đông lạnh công suất 2.500 tấn/năm luôn ăn đong nguyên liệu nhiều năm qua, mỗi năm DN này có vốn lưu động 30 tỷ đồng chỉ sản xuất cầm chừng.

Hỏi ông Trương Tiến Bao, Giám đốc Sở Thủy sản Thanh Hóa rằng: thủy sản nuôi trồng ở các tỉnh phía bắc khó khăn hơn các tỉnh phía nam nhưng Thanh Hóa có điều kiện tốt, hàng vạn ha mặt nước lợ mênh mông đồng trũng nuôi thủy sản ngọt, vậy có khó quá không? Ðược trả lời: Thanh Hóa thừa nước mặn, lợ, quá nhiều diện tích đồng ngọt và hàng nghìn cá thể, tập thể, tổ hợp đăng ký nuôi trồng thủy sản. Nhưng thiếu những cơ sở kỹ thuật giống con. Thí dụ, năm tỷ đồng xây dựng một cơ sở lưu và nhân giống cá rô phi đơn tính, hai tỷ đồng xây dựng trạm kiểm dịch giống tôm từ các tỉnh phía nam ra. Thứ nữa, cần một cơ chế trợ giống, phòng khi tôm, cá chết hàng loạt. Với gia cầm, khi dịch bệnh, Nhà nước trợ giống 10 - 15 nghìn đồng/con gà. Con tôm xuất khẩu chết, có hộ chịu thiệt thòi 40 - 50 triệu đồng, thậm chí phá sản...

Vấn đề trợ giống là phạm vi vĩ mô, xin để bàn sau. Nhưng nếu chỉ cần dăm, bảy tỷ đồng để đầu tư các cơ sở kiểm dịch và lưu giống tôm, cá thì riêng ngành thủy sản Thanh Hóa làm thừa sức sao lại xếp vào khó khăn, bế tắc?  Nếu ngành tham mưu với UBND tỉnh, tin rằng không chỉ chút ít tài chính đầu tư mà kể cả con người kỹ thuật tỉnh sẽ giúp ngành không thể thiếu cán bộ.

Ngành thủy sản Thanh Hóa rất đa dạng cơ cấu giống nuôi: tôm, cá nước mặn, nước lợ, nước ngọt, mấy năm gần đây con ngao, phi, ốc, cua sản lượng lớn, giá trị cao. Ngoài sản lượng đánh bắt hải sản, thủy sản nuôi ở tỉnh này sẽ là nguồn nguyên liệu chiếm vị trí quan trọng cho ngành hàng xuất khẩu của tỉnh. Kinh tế biển Thanh Hóa chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu chung trên địa bàn. Cần một cơ chế tạo bước đột phá trong đầu tư phát triển nuôi trồng thủy sản, để vài năm tới làm thay đổi giá trị hàng xuất khẩu gấp hai, ba lần hiện nay.

Nhớ lại bốn năm trước đây, riêng ngành thủy sản Thanh Hóa có hai cơ sở chế biến đông lạnh đã đạt 10,3 triệu USD. Trong đó, Nhà máy đông lạnh Mật Sơn đạt hơn 6 triệu USD; đông lạnh Hoằng Trường hơn 4 triệu USD. Như vậy, sau khi sắp xếp lại DN, bán đi một cơ sở sản xuất Hoằng Trường, cho thuê một cơ sở Mật Sơn để xây dựng một nhà máy có tổng giá trị xuất khẩu lại tụt xuống. Ðây là điều không thể chấp nhận được.

Trở lại KCN Lễ Môn bằng ý kiến nhận xét, đánh giá của ông Trần Minh Báo, Trưởng ban quản lý các KCN của tỉnh Thanh Hóa là: hầu hết các dự án khó khăn là do điều tra khảo sát, lập dự án đầu tư thiếu chặt chẽ, thiếu khoa học, mang nặng tính hình thức. Vì vậy, đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh không đạt kết quả như đề án. Phần lớn các dự án, năng lực tài chính kém, chủ yếu dựa vào vốn vay và vốn do Nhà nước hỗ trợ. Hiện tại, các dự án nêu trên không làm tròn nghĩa vụ DN đối với Nhà nước, chiếm dụng đất đai và không trả được tiền thuê đất, gây khó khăn cho việc hình thành nguồn thu để trả nợ của công ty hạ tầng KCN theo chính sách ưu đãi của tỉnh đã ban hành. Như vậy, việc một số DN đầu tư vào KCN Lễ Môn hoạt động sản xuất, kinh doanh kém hiệu quả là do cơ chế quản lý chưa thông thoáng, năng động, cán bộ điều hành các DN yếu, lỗi không phải tại đất. Tỉnh Thanh Hóa nên kịp thời có những "liều thuốc" có hiệu lực mạnh hơn, khi hãy còn bảy KCN khác của địa bàn đang  đi vào xây dựng và hoạt động.