Sau này, tôi có dịp gần anh, hiểu nhiều hơn, khi anh từ Văn phòng Thủ tướng sang làm việc ở Văn phòng Tổng Bí thư Lê Duẩn. Những chuyến đi công tác xa dài ngày, nhất là ở các tỉnh phía nam, tôi thường được ở với anh. Anh rất ít nói về mình, nhưng luôn say sưa giảng giải cho tôi nhiều kiến thức trong sách vở và những câu triết lý rút ra từ cuộc sống. Có lần, gần khuya mà vẫn thấy anh chưa ngủ, tôi hỏi: “Sáng mai, nói chuyện với sinh viên thành phố Hồ Chí Minh mà sao không thấy anh chuẩn bị?”. “Anh chuẩn bị trong đầu”. Từ chuyện “chuẩn bị trong đầu”, anh liên tưởng đến kỷ niệm khi trở thành thư ký giúp việc cho anh Tô (Thủ tướng Phạm Văn Đồng): Là một thanh niên Hà thành chính gốc, anh hoạt động cách mạng từ đầu năm 1944 và bị bắt. Cách mạng Tháng Tám đã giải thoát anh khỏi nhà tù phát-xít Nhật. Anh xung phong vào đoàn quân Nam Tiến, tham gia chiến đấu, trở thành đảng viên (năm 2016, anh nhận Huy hiệu 70 năm tuổi Đảng). 18 tuổi, anh đã là Bí thư Đảng ủy Trung đoàn. Năm 1947, anh đi dự Hội nghị Thanh niên Khu V, được chọn là người phát biểu. Trước ngày khai mạc, anh Tô gặp Việt Phương: “Ngày mai chú sẽ phát biểu. Vậy bài chuẩn bị của chú đâu?”. Chưa biết anh Tô là ai, anh hỏi lại: “Thưa anh, bài gì ạ?”. “Bài mà chú định nói”. “Tôi chuẩn bị trong đầu”. “Vậy chú nói thử, mình nghe”. Anh phát biểu hùng hồn, đúng gọn thời gian cho phép. Anh Tô tỏ vẻ hài lòng, nhưng vẫn dặn: “Nói vậy là được. Nhưng đứng trước lãnh đạo, trước người lớn tuổi, chú vẫn nên cầm tờ giấy, để tỏ lòng tôn trọng người nghe”. Bế mạc hội nghị, trước ngày trở về đơn vị, anh nhận được thông báo ở lại làm thư ký cho anh Tô. Và ngày đầu nhập môn, đi công tác bằng xe ô-tô, anh đã nôn thốc nôn tháo vào cả quần áo anh Tô. Hai thầy trò phải dừng xe bên bờ suối tắm giặt, chờ quần áo khô đi tiếp...
Sáng hôm sau, để được “mục sở thị thần tượng hùng hồn”, tôi xin đi theo anh. Buổi nói chuyện hôm ấy quả thật quá đông, sinh viên ngồi chật cả sân trường, lắng nghe anh như đón lấy từng lời. Anh nói liền một mạch, không nghỉ, trích dẫn C.Mác, Ph.Ăng-ghen, Hồ Chí Minh, sách Phật giáo, Kinh Thánh đúng từng trang, từng dòng mà trong tay không sách, không giấy bút ghi. Sau này, khi đã về công tác ở Báo Nhân Dân, quá nể lời đề nghị của lãnh đạo Nhà máy Biến thế điện Đông Anh, tôi thay mặt mời anh về nói chuyện. Hôm ấy, anh nói về công tác quản lý xí nghiệp. Phòng họp của ban lãnh đạo chật ních người. Không chỉ cán bộ hành chính, công nhân nhiều phân xưởng cũng xin phép đến nghe, ngồi chật cả hành lang. Bài nói của anh kết thúc khi kim đồng hồ chỉ đúng 11 giờ 30 phút, như lời mở đầu anh hứa.
Trong những chuyến đi thăm, làm việc ở các ngành, địa phương, khi nói chuyện, trao đổi ý kiến trước tập thể đông người, anh em thư ký thường ngồi ở một góc bên, nhưng Tổng Bí thư Lê Duẩn thường hay quan sát thái độ Việt Phương. Đến giờ nghỉ hoặc trong bữa ăn, anh Ba chủ động: “Khi tôi nói, có điều gì chú Phương không đồng tình?”. Có khi xảy ra cuộc tranh luận giữa hai người. Tiếng Việt không đủ diễn đạt, hai thầy trò lại chuyển sang tiếng Pháp lưu loát, trơn tru. Tôi cảm nhận toàn bộ trí tuệ, tâm huyết và những trải nghiệm cuộc đời, Việt Phương đều dâng hiến cho người mình giúp việc. Một bộ óc như thế, một tài ba như thế, nhưng gần như suốt cuộc đời, Việt Phương yên tâm tận tụy với một nghề, thư ký giúp việc. Dù thời gian dài nhất làm thư ký cho anh Tô, hay ngắn hơn làm thư ký cho anh Ba (Tổng Bí thư Lê Duẩn), tham gia lãnh đạo Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương hay ở Tổ tư vấn và Ban nghiên cứu của Chính phủ, anh cũng theo nghề ấy. Tại Đại hội II của Đảng, năm 1951, Việt Phương là người trẻ nhất Đoàn Thư ký. Anh sống khiêm tốn, giản dị, giản dị quá mức, không bao giờ đòi hỏi cho cá nhân. Anh ân hận mãi về một lần yêu cầu người khác. Chả là, lần ấy qua Liên Xô để đi dự Hội nghị Giơ-ne-vơ, muốn có bữa ăn hợp hơn cho anh Tô, chưa đủ từ tiếng Nga nói con cua, Thư ký Việt Phương đã để mười ngón tay liên tục bấm trên bàn diễn tả con cua bò ngang. Không ngờ, hôm sau những người phục vụ mồ hôi nhễ nhại khuân lên một chiếc đàn pi-a-nô. Việt Phương luôn tự nghiêm khắc với mình. Thường xuyên theo Thủ tướng, Tổng Bí thư ra nước ngoài, nhưng anh chẳng mua bất cứ thứ quà gì cho vợ con; tiền sinh hoạt phí, anh cho anh em bảo vệ. Những lần vào thành phố Hồ Chí Minh, chị Ba Thi thương anh em trong đoàn, thường cho mỗi người năm ký gạo gửi về cho các thím. Anh nhận phần, sau cho lại anh em, “vì các chú khó khăn hơn”. Có đêm tôi thẳng thắn: “Nhiều người bảo anh lập dị. Tại sao đi công tác anh mặc cả quần vá. Miền nam có nhiều hoa quả, sao anh không mua về cho các cháu?”. Anh hỏi lại: “Thật thế à? Nhiều người nói... có khi cũng đúng. Nhưng, anh đã quen. Dân còn khổ lắm”.
Từ ngày tôi biết Việt Phương, ngoài thời gian làm việc, tất cả vui buồn anh dồn cả vào thơ. Anh nói: “Thơ nói được chính lòng mình”. Có những đêm, đang ngủ, anh nhẹ nhàng thức dậy, ra phòng khách ghi chép. Mấy hôm sau, anh đưa cho tôi cả tập những bài thơ anh vừa viết: “Chú là người đọc đầu tiên đấy. Bài nào thích, chú đánh dấu. Từng bài, câu nào được nhất, chú đánh dấu riêng. Đừng ngại, cứ theo ý chú”. Đọc thơ anh, hiểu được, không dễ, phải ngẫm nghĩ, đọc đi, đọc lại. Từng ý thơ, hình ảnh, đều có ý riêng của cảm xúc. Tình yêu chung thủy, tâm tư về thời cuộc, những triết lý sống, làm người, tất cả đều có chiều sâu. Đầu đề mỗi bài chỉ có một từ, nhiều thể loại, không chấm, phẩy, chỉ xuống dòng. Trong thơ anh, tôi nhớ mãi những câu tự sự thật lòng:
Cứ đêm đêm, ta lại xét kết nạp ta vào Đảng
Thời gian nâng đòi hỏi mãi cao thêm
Đến trọn đời, từng giờ là cộng sản
Những nỗi đau ta cũng sáng búa liềm
(Bài Tâm sự đảng viên)
Hay: Nợ dân trả mấy cho vừa
Bao nhiêu tận tụy cũng chưa đủ đầy
Một đời còn mấy năm đây
Xin đem tâm huyết đêm ngày đền ơn
(Bài Ngộ)
Nhưng, một lần giữa trưa, Việt Phương gọi điện cho tôi, “Anh đốt tất cả các tập thơ rồi”. “Sao vậy anh?”. “Anh không muốn chị buồn. Tú Lan bảo mỗi bài thơ của anh đều có bóng dáng người con gái”. Sau này, chị Tú Lan giải thích, anh hiểu lầm ý chị, nên động viên anh nhớ lại, tái sinh các tập thơ, dù không thật đầy đủ: “Cửa mở” (1970, 1989, 2009), “Cửa đã mở” (2008, 2011), “Bơ vơ đông đảo”, “Nhặt nắng trong sương” (2011), “Cỏ dọc đường trần” (2010), “Cát dưới chân người” (2011), “Sống” (2012), “Lan”, “Nắng” (2013),... toàn những nhà xuất bản tên tuổi ấn hành.
Việt Phương là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Sự nghiệp thơ của anh cũng khá đồ sộ, chứ đâu chỉ dừng ở “Cửa mở”. Chỉ có điều “Cửa mở” đi trước thời gian, gây nên sự bỡ ngỡ cho mọi người.