Tôi muốn qua Nguyễn Lương Bằng nghiệm về lẽ sống ở đời, về tiêu chuẩn đức tài của cán bộ. Bác Hồ nhấn mạnh đức là cái gốc. Tài mà không đức thì cũng hỏng. Có người trổ tài, nổi đình nổi đám nhưng vô hạnh liền bị dân khinh thường. Người xưa nói “chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” là thế! Có nghệ sĩ thư pháp viết ba chữ “Tâm- Đức- Tài” rất đẹp tặng một số nhân vật đương thời. Ngụ ý rất hay. Tôi được tặng một tấm, treo lên để răn mình.
Trong chốn trần ai này, giữ được tâm đức là khó nhưng không thể không giữ. Vi phạm đạo đức đồng nghĩa với phạm tội, tức là đi quá giới hạn hợp lý của nhu cầu vật chất, không chịu dừng trước lằn ranh đó. Chỉ có những người có tâm đức mới chịu dừng lại và tránh được tai họa. Người xưa nói “tri chỉ bất họa” là thế. Hãy dừng lại ở nơi không được phép bước qua.
Luận về tâm đức, ta có thể liên hệ ngay một số người không sợ sai trong đó có Anh Cả Nguyễn Lương Bằng, cố Phó Chủ tịch nước.
Anh Cả Nguyễn Lương Bằng không nói lý luận nhiều nhưng chắc nịch trong hành vi. Anh là một trong những mẫu mực cách mạng, được cả nước kính trọng và cực kỳ yêu mến, coi như tấm gương sáng làm người, làm chiến sĩ cộng sản. Tôi nghe danh Sao Đỏ từ những ngày mới tham gia cách mạng, nghe về vụ vượt ngục thần tình của anh cùng với “Tạo cuội” (Nguyễn Tạo, Tổng cục trưởng Lâm nghiệp sau này).
Ở Hà Nội, đôi khi tôi đến thăm anh chị ở ngôi nhà khiêm tốn không có một thứ gì sang trọng so với vị trí công tác của anh. Cảm giác đầu tiên của tôi là con người này, như Robespierre của đại cách mạng 1789 của Pháp, là con người không gì làm suy chuyển được. Đây là tấm gương không ham nhà cao cửa rộng như bao người khác. Ai thì tôi chưa biết chứ anh thì rõ ràng là cái bóng cần kiệm liêm chính, chí công vô tư của Hồ Chí Minh vĩ đại. Anh theo Bác không phải bằng thuyết giảng về đạo đức mà bằng cách sống và chiến đấu theo phong cách hàng ngày của Người.
Anh là Đại sứ đầu tiên của ta tại Liên Xô sau khi Liên Xô công nhận Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm 1950. Thời đó, đang kháng Pháp quyết liệt, ta nghèo lắm. Sứ quán đóng tại một căn nhà cũ kỹ, thấp lè tè trên một con đường nhỏ, mưa xuống là lầy lội. Mãi tới khi Bác Hồ chính thức sang thăm bạn, bạn mới cho sửa chữa con đường đó. Tôi thay đồng chí Nguyễn Văn Kỉnh, làm Đại sứ, đời thứ ba ở Liên Xô, thấy sứ quán mới tuy còn khiêm tốn nhưng đã khang trang hơn, đã có vườn tược trên đường Bolsaia-Pirogovskaia, các phòng đã rộng rãi. Chúng tôi đã tiếp nối tác phong của anh trong nghề ngoại giao: chân thành, khiêm tốn, giản dị để tranh thủ sự ủng hộ to lớn của bạn.
Khi tôi còn là Bí thư Khu ủy Hồng Quảng, anh rất quan tâm đến điều kiện và đời sống công nhân mỏ. Một lần đi Hải Ninh về qua, anh cho biết các đồng chí Hải Ninh than phiền ế lợn, Hồng Quảng thiếu thịt mà không chịu ra mua. Tôi mừng quá, liền điện cho Tỉnh ủy Hải Ninh giúp đỡ mua lợn rồi cho hẳn một xe vận tải lớn với đầy đủ tiền nong ra Hải Ninh. Đi về mấy trăm cây số nhưng chỉ mua được hai con lợn. Vậy đấy. Bởi vì chỉ thừa hai con lợn cũng là thừa. Thương nghiệp khu mỏ được một phen mừng hụt, những tưởng có thịt phân phối đủ cho thợ, lại có thêm lòng, xương để tăng cường thêm cho các cửa hàng ăn quốc doanh! Ngày nay, ít ai hiểu nông nỗi chúng tôi ngày ấy. Nhưng lỗi đâu phải của Anh Cả.
Khi làm ngoại giao, mỗi lần gặp nhau, chúng tôi lại trao đổi chuyện đối ngoại. Anh rủ rỉ kể lúc còn kháng Pháp, có lần được cử sang Trung Quốc, ngoài mặc bộ đại cán nhưng trong là sơ mi rách. Trời mùa hạ, khí hậu lục địa rất oi bức. Bạn cứ nhắc anh cởi áo ngoài ra cho mát, anh không dám. Sau đó bạn phát hiện anh mặc áo rách, thương quá ! Trong nhiều năm anh làm tài chính cho Đảng, rất nghèo, anh phải tính từng xu, quản lý rất minh bạch, không ai có thể phí phạm. Anh săn sóc sức khỏe cán bộ có chính sách, rất công bằng. Việc đáng tiêu anh không ngại chi. Nhưng không cần thì một xu cũng không bỏ ra. Trước cách mạng và thời kháng Pháp khó khăn, nhiều người đi công tác với anh còn kể, đi đường đói bụng, anh đưa vào chợ quê ngồi ăn bánh đúc chấm tương là món rẻ nhất mà no bụng.
Ở tù Sơn La, anh chăm lo bồi dưỡng cho đồng chí Tô Hiệu bị ho lao rất mực chu đáo. Cái gì bổ nhất là trước hết dồn cho Tô Hiệu, rồi đến anh em ốm đau khác.
Suốt đời tôi chưa thấy Anh Cả mặc quần áo sang trọng, nhưng luôn tươm tất chỉnh tề. Dù ở chức vụ cao nhưng Anh không hề quan cách, đi đâu cũng rất đỗi bình thường, không tiền hô hậu ủng như một số người.
Có lẽ, thế chăng, hồi ấy vô cùng khó khăn gian khổ mà toàn dân yêu mến và tin tưởng lãnh tụ, toàn dân đoàn kết, chiến đấu lao động vượt qua muôn vàn khó khăn, đánh thắng những kẻ thù hung dữ nhất. Có lẽ, thế chăng, lời ca tiếng hát nụ cười không dứt trên miệng dân ta, lòng người cứ phơi phới vươn lên. Và có lẽ thế chăng, toàn thể loài người tiến bộ hướng về Việt Nam, ủng hộ Việt Nam. Nhưng xã hội vẫn là xã hội. Thời ấy cũng có tiêu cực, tuy không đến nỗi nghiêm trọng và tràn lan như ngày nay. Nội bộ cũng có chuyện này chuyện khác nhưng anh rất bình tĩnh cùng Đảng lo toan.
Thế rồi Anh Cả ra đi mãi mãi, để lại cho đời sau một tấm gương kiên trung bất khuất, trong sáng giản dị bậc nhất: nghèo cho sạch, rách cho thơm cả vật chất và tinh thần.