Mới ngày nào đây, từ các bài phóng sự Vua lốp và Cái đêm hôm ấy đêm gì, đến truyện ngắn Tướng về hưu, tiểu thuyết Thời xa vắng … còn đang là sự kiện thời sự của văn đàn vậy mà 20 năm đã qua. So với lịch sử một nền văn chương - văn học, 20 năm chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi, nhưng với 20 năm của thời kỳ đổi mới văn chương - văn học Việt Nam vừa qua thì vấn đề không chỉ là thời gian dài hay ngắn, vì theo tôi, chính giai đoạn 1986 - 2006 đã tạo ra nhiều điều kiện xã hội - nghề nghiệp để văn chương - văn học bộc lộ hầu hết các ưu điểm, đồng thời cũng bộc lộ hầu hết các hạn chế tích tụ đã lâu ngày.
Từ góc nhìn của một người làm lý luận - phê bình thường có xu hướng xem xét và đánh giá sự vật - hiện tượng trong tính liên tục của nó, tôi cho rằng, muốn xây dựng một chương trình cụ thể và thiết thực cho lý luận - phê bình của ngày mai, chúng ta cần phải xem xét cả hôm nay với tinh thần thẳng thắn và cầu thị. Vì vậy bài viết thử đưa ra một số kiến giải từ những gì mà người viết đã thâu lượm và suy ngẫm về văn chương - văn học Việt Nam trong 20 năm qua.
1. Ở nửa cuối thập kỷ 80 của thế kỷ trước, khi sự nghiệp đổi mới chập chững một hai bước đi đầu tiên thì tương ứng với bước đi ấy, văn chương Việt Nam cũng đã có một sự khởi sắc mà lịch sử văn chương - văn học nước nhà sẽ ghi nhận như một cột mốc quan trọng. Nỗ lực của các nhà văn cùng với các tiền đề tinh thần do đổi mới đem lại… đã có vai trò to lớn giúp vào sự ra đời của một số tác phẩm mà ở đó, văn chương không còn chỉ là câu chuyện của số phận cộng đồng, không còn chỉ là câu chuyện của các ứng xử hướng về cái vĩ mô lớn lao…, văn chương đã tiến một bước để trả lời các câu hỏi có liên quan tới số phận con người, tới các tình huống xã hội đã đẩy tới các số phận ấy…
Trong các trường hợp này, có thể coi tiểu thuyết Thời xa vắng của Lê Lựu là tác phẩm điển hình cho các lý giải, nó nhận được sự chia sẻ của đông đảo bạn đọc vì đã “nói thay” cho điều nhiều người muốn nói.
Dẫu thế nào thì trong các năm đầu của công cuộc đổi mới, những vấn đề lý luận - thực tiễn đối với sáng tác văn chương đã đặt ra nhiều yêu cầu, và nổi lên trong đó là việc tác giả - tác phẩm cần tham gia phân tích một cách nghệ thuật rằng tại sao, các lý do khách quan và chủ quan nào có thể đẩy sự sinh tồn của nhiều con người vào những tình huống nằm ngoài ý muốn của họ. Ẩn ức tích tụ trong vài thập kỷ đã đến lúc cần được giải tỏa, chúng cần đến văn chương bởi văn chương là một trong các phương tiện có khả năng khám phá các hoàn cảnh xã hội, đồng thời còn có khả năng khám phá sự vận động của thế giới tinh thần bên trong của mỗi con người trong hoàn cảnh xã hội đặc thù, ở một thời đoạn nào đó.
Không riêng tác phẩm văn chương, vào thời kỳ đầu của đổi mới, dư luận rộng rãi còn xôn xao với một số tác phẩm thuộc các loại hình nghệ thuật khác như Hà Nội trong mắt ai ở điện ảnh, như Tôi và chúng ta ở sân khấu…
Đặt các tác phẩm này bên cạnh các tác phẩm văn chương, và thẩm định chúng trong mối quan hệ, tôi cho rằng sự ra đời của chúng là để đáp ứng các nhu cầu có ý nghĩa cập nhật trong khi nghệ sĩ cố gắng tìm hiểu đâu là các căn nguyên thời quá khứ đã đẩy tới những vấn đề xã hội - con người thời hiện tại. Đây là logic tất yếu của tiến trình nhận thức, bởi con người chỉ có thể đưa ra một hoạch định thật sự có giá trị với tương lai một khi họ biết đặt tương lai ấy trong tương quan với hiện tại và quá khứ.
Về văn chương, nếu có thể coi ở mức độ nào đó Giang Minh Sài đã trở thành nhân vật của một giai đoạn văn học, trở thành cái tên chung khi người ta liên tưởng tới những con người cùng cảnh ngộ, ít ra là ở một vài đường nét, thì tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp cùng thời kỳ lại không có một kết quả như vậy.
Có lẽ vì Nguyễn Huy Thiệp không dành nhiều chú ý đến việc khắc họa các tính cách, đối với Nguyễn Huy Thiệp, tính cách nhân vật nhiều khi như là cái “cớ” để triển khai các ý tưởng (điều này lý giải tại sao nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp thường có xu hướng thích triết lý, đánh giá?).
Phơi bày hiện thực trong những tình huống trần trụi qua một góc nhìn, một lối víết, một giọng điệu hầu như chưa từng xuất hiện trong văn chương… đã làm cho tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp có một chỗ đứng nhất định trong văn chương Việt Nam hiện đại.
Nếu truyện ngắn của Đỗ Chu từng là hiện tượng thu hút sự chú ý trên văn đàn, thì đến Nguyễn Huy Thiệp, truyện ngắn của anh tiếp tục làm nên một hiện tượng khác, như là tiếp nối dòng chảy của truyện ngắn Việt Nam.
Và điều tôi muốn trình bày ở đây là dù trong một số tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp có mang chứa yếu tố huyền thoại hay lạ hoá thì các yếu tố ấy vẫn không vượt ra khỏi sự thật từ hiện thực, từ lịch sử, điều này đã đưa tới các cuộc tranh luận nảy lửa trên báo chí. Và theo tôi, đây là “hòn đá thử vàng” đối với trình độ chung của lý luận - phê bình văn học Việt Nam ở thời điểm đó.
Cần khẳng định rằng trong một thời gian rất dài, trong đó chủ yếu là những năm tháng chiến tranh, hiện thực và các vấn đề của hiện thực cùng các tiêu chí đánh giá có nguồn gốc từ hiện thực đã chi phối cách nhìn, cách thẩm giá… tác phẩm văn chương của đa số nhà lý luận - phê bình (đến mức trong một số trường hợp, các tiêu chí đó đã trở thành khuôn mẫu?).
Trên phương diện quan hệ giữa văn chương - văn học với xã hội thì đây là một tất yếu lịch sử, khi mà trong mấy chục năm trời, xã hội luôn trực tiếp đặt ra các nhiệm vụ cho nhà văn, và với tư cách là “chiến sĩ”, họ cần thiết và cần phải sử dụng ngòi bút như công cụ đấu tranh cho cho lẽ phải, cho sự tồn vong của dân tộc…
Tuy nhiên nhiệm vụ xã hội của văn chương - văn học không phải là cái gì bất biến, nó biến động cùng sự vận động của lịch sử và sự biến động ấy không những yêu cầu nhà văn phải theo kịp mà yêu cầu nhà lý luận - phê bình cũng cần coi đó là một trong các tiêu chí cơ bản, đầu tiên để đánh giá tác phẩm.
Theo thời gian, dường như mối liên hệ kể trên đã làm hình thành nên hai thói quen: Một là nhà văn thường dành sự quan tâm đến các vấn đề xã hội - con người thời sự cập nhật, ít chú ý tới các vấn đề có ý nghĩa “xuyên thời gian” cả về tư tưởng lẫn nghệ thuật; Hai là các vấn đề hiện thực có thể “thực chứng” thường hấp dẫn nhà văn và nhà lý luận - phê bình hơn là các vấn đề có liên quan đến hiện thực được sáng tạo trong tác phẩm (đôi khi ở mức có thể được coi là rất “trừu tượng”) cần khảo sát kỹ lưỡng trong tầng sâu của thế giới tinh thần. Phản ánh hiện thực trong tính cụ thể và thời sự của nó, dần dà trở thành thói quen trong sáng tác của nhiều nhà văn, và dần dà cũng trở thành thói quen thẩm giá của người làm lý luận - phê bình.
Tất nhiên, phản ánh hiện thực “như nó vốn có” không phải là một cái gì đáng trách, nhưng phản ánh hiện thực một cách thô thiển và máy móc, rồi thẩm định hiện thực trong tác phẩm cũng theo các cách thức thô thiển và máy móc phần nào sẽ làm hạn chế khả năng sáng tạo của người viết, làm cho tưởng tượng và hư cấu - hai yếu tố có vai trò quan trọng trong sự thành bại của tác phẩm nghệ thuật nói chung, của tác phẩm văn chương nói riêng sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Phải chăng sự dễ dãi và dập khuôn trong sáng tác, sự dễ dãi và dập khuôn trong đánh giá đã đưa tới một hệ quả là đội ngũ nhà văn của chúng ta ngày càng đông đảo, tác phẩm xuất bản mỗi năm mỗi nhiều hơn… song tác phẩm có khả năng sống được với thời gian thì cực kỳ ít ỏi? Phải chăng điều này đã làm hình thành nên thói quen “tự kiểm duyệt” của nhà văn trước khi đối diện với các đánh giá của nhà phê bình?
Sự xuất hiện của truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và vấn đề phản ánh hiện thực trong các tác phẩm này dường như đã “đi ra ngoài” thói quen và quỹ đạo thông thường và chúng ta đã được chứng kiến một cuộc tranh luận mà xét đến cùng chính là sự “đụng độ” giữa quan niệm phản ánh hiện thực như nó vốn có (như so sánh với lịch sử chẳng hạn) với quan niệm rằng nhà văn có thể hư cấu nên một hiện thực khác (như vấn đề “nghiền ngẫm về hiện thực” chẳng hạn).
Chưa trực tiếp đọc văn bản và cũng chưa có điều kiện khảo sát, song tôi có nghe một vài bạn nghề kể lại ở thời điểm này, nhà lý luận - phê bình mỹ thuật Thái Bá Vân đưa ra ý kiến khá lý thú rằng: “Hiện thực là cái không nhìn thấy được”.
Nếu đúng vậy, liệu có thể coi ý kiến của Thái Bá Vân là một diễn đạt khác về vai trò chủ quan của nghệ sĩ nói chung, của nhà văn nói riêng trong khi sáng tạo một “hiện thực mới” trong tác phẩm nghệ thuật?
Có thể đặt ra câu hỏi: sự tiếp nhận tác phẩm nghệ thuật theo xu hướng dị ứng với các ý tưởng, các chi tiết tưởng như “phi hiện thực” phải chăng đã góp phần hạ thấp vai trò của yếu tố chủ quan trong quá trình sáng tạo tác phẩm, đồng thời đẩy tới mâu thuẫn với điều chúng ta vẫn khẳng định rằng sự ra đời của tác phẩm nghệ thuật là kết quả tổng hòa giữa các yếu tố khách quan có nguồn gốc từ hiện thực với khả năng sáng tạo có nguồn gốc chủ quan trong tư duy của nghệ sĩ?
Ở thời điểm sự phê phán quan niệm “nghiền ngẫm về hiện thực” của Lê Ngọc Trà đạt tới lúc cao trào, tôi cũng mong muốn được trình bày ý kiến của mình, song ngày ấy, dường như cuộc tranh luận không phải là “sân chơi” cho một kẻ mới chân ướt chân ráo dò dẫm vào làng văn như tôi, nên bài gửi đi đã không có hồi âm. Mà ngày ấy ý kiến của tôi cũng chẳng có gì ghê gớm, chỉ là kêu gọi sự bình tĩnh và khuyến nghị: khi bàn về quan hệ giữa tính khách quan của hiện thực và vai trò sáng tạo chủ quan của nhà văn, về phương diện phương pháp luận, chúng ta không thể không liên hệ tới ý kiến của C.Mác về vấn đề vật chất “chuyển” vào trong đầu óc người và được “cải biến” trong đó, hoặc như V.I.Lênin đề cập tới quan hệ giữa hình ảnh chủ quan với thế giới khách quan mà bất kỳ tác giả nào đề cập tới vấn đề này từ lý luận phản ánh, từ nguồn gốc bản chất của ý thức cũng không thể bỏ qua.
Thiết nghĩ với văn chương, có lẽ cần nghiên cứu kỹ lưỡng hơn là ở chỗ sáng tạo chủ quan (hay sự là nghiền ngẫm?) của nhà văn đưa lại điều gì trong tác phẩm chứ không phải là so sánh nó với hiện thực để kết luận có hay không, qua đó đánh giá chất lượng tư tưởng - nghệ thuật theo lối “gọt chân cho vừa giày”.
Theo quan niệm của tôi, cuộc tranh luận về ý kiến của Lê Ngọc Trà diễn ra hàng chục năm trước xét đến cùng chỉ là một cuộc “tranh luận giả”, nhưng nó lại giúp bộc lộ hình hài của sự hời hợt, nông cạn về lý luận, nên sau đó, dẫu quan niệm phản ánh hiện thực có vẻ thắng thế thì sự đụng độ giữa quan niệm cũ và các quan niệm manh nha mới... đã cho thấy sự nghiệp đổi mới lý luận - phê bình văn học sẽ không hẳn là “thuận buồm xuôi gió”.
2. Đổi mới lý luận - phê bình, thiển nghĩ trước hết phải là đổi mới trong tư duy về đối tượng, hơn thế nữa, còn là đổi mới quan niệm về vai trò, chức năng… của lý luận - phê bình.
Về lý thuyết, chúng ta đã và đang xem lý luận - phê bình là một bộ môn khoa học xã hội - nhân văn, song trong thực tế, ngay cả việc xác định và khu biệt nó trong nội hàm một khái niệm thì xét đến cùng chúng ta vẫn chưa làm được, mà vẫn “nhốt” chung vào một “rọ” với đối tượng nghiên cứu của chính nó là văn chương.
Nói cách khác, cho tới hiện tại việc chúng ta sử dụng khái niệm văn học vừa để chỉ các sáng tác văn chương, vừa để chỉ lý luận - phê bình là rất không thoả đáng về mặt khoa học. Phải nói rằng sự nhập nhằng này kéo dài đã quá lâu, đã trở thành một quan niệm “thâm căn cố đế” trong nhiều từ điển chuyên ngành, trong đa số giáo trình, giáo khoa, được truyền bá trên mọi giảng đường từ phổ thông đến đại học, được sử dụng làm khái niệm công cụ trong công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa bảng... Tựu trung theo tôi, có một câu hỏi trực tiếp đặt ra là: Liệu có thể đổi mới, phát triển một bộ môn khoa học khi mà ngay cả việc xác lập cho nó một định danh hoàn chỉnh trong tư cách là một khái niệm khoa học vẫn còn chưa rõ ràng?
Để không bị rơi vào một cuộc tranh luận có nguy cơ bất tận mà cuối cùng chẳng đi tới đâu, rằng theo tiếng Anh thì thế này, theo tiếng Pháp thì thế kia, theo tiếng Nga thì thế nọ, hoặc từ điển này định nghĩa như thế này, từ điển kia định nghĩa như thế kia... tôi chỉ xin dẫn lại và bày tỏ sự đồng tình với định nghĩa của Bách khoa toàn thư mở Wikipedia như sau:
“Văn chương là khái niệm dùng để chỉ một ngành nghệ thuật - nghệ thuật ngôn từ. Văn chương dùng ngôn từ làm chất liệu để xây dựng hình tượng, phản ánh và biểu hiện đời sống... Văn học là khoa học nghiên cứu về văn chương. Nó lấy các hiện tượng văn chương nghệ thuật làm đối tượng cho mình. Quan hệ giữa văn chương và văn học là quan hệ giữa đối tượng và chủ thể, giữa nghệ thuật và khoa học; văn chương (nghệ thuật) là đối tượng của văn học (khoa học)”.
Thật ra, đây không phải là một phát hiện mới mẻ và ai đó có thể trả lời rằng người ta thường diễn đạt như thế còn khi làm việc thường thì người ta... sẽ hiểu khác đi! Song tôi cho rằng một ngày mà sự nghiêm cẩn về khái niệm còn chưa được chú ý thì ngày ấy yêu cầu về “tính khoa học” của lý luận - phê bình vẫn là một cái gì khá mơ hồ.
Cách đây vài năm, tôi đã một lần phát biểu ý kiến này trước đồng nghiệp, và một nhà phê bình đã lên tiếng bình luận theo lối cảm tính trên tạp chí Nhà văn (số 4.2006) như sau: “có ý kiến cho rằng văn học là một khoa học gồm ba bộ phận hợp thành là lý luận văn học, nghiên cứu văn chương và phê bình văn chương.
Theo tác giả này thì trong văn học không có thơ, truyện ngắn tiểu thuyết, kịch… nữa. Như vậy, với ý kiến này thì lý luận phê bình văn học bỗng nhiên có được một ngôi nhà quá rộng và cũng quá sang trọng, tất cả các thể loại văn học khác như thơ ca, văn xuôi và kịch được tác giả táo bạo này chuyển sang chung cư “văn chương”. Nếu thực hiện dự án đổi mới táo bạo này thì chỉ riêng việc sửa chữ văn học thành văn chương trong tất cả các văn bản có bàn và dính đến văn học từ thời thượng cổ đến nay thôi thì tác giả của nó đã phải tốn hàng nghìn năm cũng chưa sửa hết…”.
Thật đáng sợ khi người ta phê bình một điều mình chưa hiểu. Thật đáng sợ khi mang danh là nhà phê bình nhưng vẫn có người còn thiếu vắng khả năng hiểu cho thật thấu đáo các tri thức tối thiểu của chuyên ngành khoa học mà họ tham gia.
Và tôi tin rằng, sự thiếu thấu đáo ấy có nguồn gốc từ trong nhà trường, nơi hầu như sách vở sử dụng để giảng dạy và bản thân nhiều người làm công việc giảng dạy chưa có thói quen phân biệt sự khác nhau giữa một chuyên ngành khoa học với đối tượng nghiên cứu của nó. Và với nhiều thế hệ sinh viên sau khi ra trường, chỉ người nào có ý thức nghiêm túc, tiếp tục học hỏi thì may ra mới phát hiện và sửa đổi, còn ai đó đã đặt niềm tin vào sự mơ hồ thì sẽ không mảy may nghi ngờ và nhanh chóng phản ứng khi người khác có ý kiến không trùng khớp với điều thầy cô đã dạy. Nên tôi không ngạc nhiên khi thấy nhà phê bình nói trên thường loanh quanh hù dọa người đọc với mấy khái niệm vừa to tát vừa trừu tượng như “tư duy hình tượng”, “hình tượng nghệ thuật”… mà không biết rằng các khái niệm này gần gũi với mỹ học hơn là với lý luận văn học. Và tôi càng không ngạc nhiên khi gần đây tác giả này còn đề xuất ý kiến: đã có văn học trẻ thì phải có phê bình trẻ - một ý kiến theo tôi thì… quả là không biết nói thế nào!
Có lẽ vì vậy, một nhà lý luận - phê bình văn học vốn khá hiền lành như anh Ngô Vĩnh Bình cũng đã phải lên tiếng qua bài Không chỉ có một kiểu phê bình (Văn nghệ Công an, 8-2006).
Tóm lại, để đổi mới lĩnh vực mà mấy năm nay, từ Hội đồng lý luận - phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đến Hội Nhà văn, Viện Văn học đã nhiều lần tổ chức Hội thảo, đã có nhiều ý kiến tâm huyết cất lên... thì bên các vấn đề to tát, thiết nghĩ không thể bỏ qua những điều tưởng chừng nhỏ nhặt như việc xác lập các khái niệm, nghiên cứu các quan hệ nội sinh và ngoại sinh của văn học, văn chương... Bởi lẽ sự xộc xệch của các vấn đề to tát phải chăng có nguồn gốc từ những điều nhỏ nhặt đã bị bỏ qua? Hy vọng công trình lý luận văn học do PGS TS La Khắc Hoà chủ trì sẽ giải quyết thấu đáo các nội dung này.
3. Vài năm trở lại đây, đối với nhiều người, dường như cái kết luận “lý luận - phê bình không theo kịp sáng tác” đã trở thành một thực tế hiển nhiên, không cần tranh cãi. Nguồn cơn sâu xa của kết luận này có lẽ là ở quan niệm coi lý luận - phê bình như “cái đuôi” của sáng tác và chúng ta đã không nhìn nhận nó như một công việc thuộc về khoa học, lại nữa là quan niệm coi “phê bình định hướng cho sáng tác” dường như đã trở thành một nguyên tắc trong khi xử lý quan hệ giữa văn học với văn chương.
Trong một số trường hợp, người ta còn không ngần ngại khi cho rằng lý luận - phê bình là nguyên nhân của mọi nguyên nhân đã làm cho văn chương chậm phát triển... Là một người đã và vẫn khẳng định lý luận - phê bình văn học ở nước ta đang rơi vào khủng hoảng, và xem xét vai trò của lý luận - phê bình trong sinh hoạt văn học - văn chương trong 20 năm qua, tôi nhận thấy nổi lên hai xu hướng thái độ có khả năng tác động tiêu cực tới vai trò của phê bình, đó là xu hướng là tuyệt đối hoá lý luận - phê bình, và xu hướng đơn giản hoá lý luận - phê bình.
Với xu hướng tuyệt đối hoá lý luận - phê bình. Về nguyên tắc, một tiểu luận lý luận - phê bình bao giờ cũng chỉ là một phép thử, một phán đoán, một gợi ý trong việc đọc và tiếp nhận chứ không bao hàm ý nghĩa là tiếng nói cuối cùng, quyết định số phận của tác phẩm.
Nhưng trong thực tế, và như một quy ước không thành văn, thường thì nhiều người đã hiểu ngược lại, nhất là ở những người viết lý luận - phê bình với tâm thế chủ quan, tự coi ý kiến của mình là duy nhất đúng. Về lý thuyết, theo tôi, tiêu biểu cho xu hướng này là ý kiến của một vị giáo sư tiến sĩ trình bày trong công trình nghiên cứu về văn học thế kỷ XX xuất bản năm 2004.
Sau khi phân loại phê bình thành ba bộ phận gồm: phê bình của người đọc, phê bình chuyên nghiệp và phê bình nghệ sĩ, ông viết: “phê bình chuyên nghiệp, hay phê bình khoa học mà Thibaudet gọi là phê bình kiểu giáo sư... loại phê bình này có vai trò không thể thay thế” bởi “Một là nó làm cho toàn bộ văn học quá khứ có được tính đương đại. Hai là do có sự am hiểu tác giả, tác phẩm, thời đại và phương pháp phân tích thấu đáo nên loại phê bình này thường cung cấp một cách đánh giá chuẩn xác, có tính khoa học và toàn diện. Thứ ba, do có lý luận, do ảnh hưởng của các phương pháp khoa học khác nhau, mà loại phê bình này đã chấm dứt cái quan niệm phê bình không cần phương pháp hoặc chỉ có một phương pháp…” và đây là “loại phê bình thể hiện tập trung nhất cho trình độ học thức, ý thức tự giác về nghề nghiệp, quan niệm lý luận và phương pháp phê bình” (sđd, tr.664).
Tôn trọng ý kiến phê bình của mọi tác giả, không phân biệt họ là ai, song tôi cho rằng vấn đề là ở chất lượng bài viết, là ở công trình phê bình văn học có giá trị, ý nghĩa như thế nào chứ không phải do ai viết, dù đó là anh nhà báo, chị biên tập viên, bác nhà văn, nhà thơ danh tiếng, hay vị giáo sư khả kính.
Và nếu sử dụng các tiêu chí do vị giáo sư tiến sĩ nói trên xác lập để đánh giá phê bình “kiểu giáo sư” ở Việt Nam thì cho phép tôi được bày tỏ sự nghi ngờ, nếu không nói tôi hoàn toàn có khả năng chứng minh rằng đã và đang có quá nhiều các sản phẩm lý luận - phê bình do các vị giáo sư tiến sĩ sản xuất lại “thể hiện tập trung nhất cho trình độ học thức, ý thức tự giác về nghề nghiệp, quan niệm lý luận và phương pháp phê bình” ở một trình độ thấp, nếu không nói là “giả khoa học”.
Không phải bất kỳ vị khoa bảng nào cũng có thể giải quyết hài hoà quan hệ giữa khả năng nắm bắt, thâu nhận các lý thuyết văn học với khả năng khám phá, phân tích một (các) tác phẩm văn chương cụ thể. Đó là sự thật.
Một sự thật đáng buồn tương ứng với tình trạng đáng quan ngại của khoa học của nước nhà là khoa bảng thì nhiều mà công trình xứng đáng là khoa học thì ít. Tôi coi sự có mặt của “phê bình kiểu giáo sư” trong lý luận - phê bình văn học là hết sức cần thiết, song mấy chục năm qua ở Việt Nam, sự nhầm lẫn người học với người đọc, giữa giảng đường với sinh hoạt văn học của xã hội, giữa việc biên soạn giáo án với nghiên cứu khoa học... chính là rào cản đồng thời cũng là một nguyên nhân đẩy tới tình trạng tuyệt đối hoá vai trò của một số nhà khoa bảng cùng một số tác phẩm lý luận - nghiên cứu - phê bình của họ.
Nhầm lẫn giữa người học với người đọc sẽ đi tới chỗ coi người đọc như học trò cần được dạy dỗ. Nhầm lẫn giữa giảng đường với sinh hoạt văn học của xã hội sẽ đi tới chỗ không biết lắng nghe, không biết kiểm tra lại chính mình mà giãy nảy lên khi bị phê phán. Nhầm lẫn giữa biên soạn giáo án với nghiên cứu khoa học sẽ đi tới chỗ không phân biệt được sự khác nhau giữa tiếp thu, kế thừa trong biên soạn giáo án với yêu cầu về tính phát hiện và đề xuất ý tưởng mới trong nghiên cứu khoa học. Và đây cũng là nguyên nhân lý giải tại sao nhiều cuốn sách giáo khoa văn chương - văn học lại trở thành tiêu điểm phê phán của dư luận rộng rãi.
Với xu hướng đơn giản hoá lý luận - phê bình . Tiếp cận, nhận xét, đưa ra ý kiến về tác phẩm văn chương là một khả năng luôn tiềm ẩn trong mọi người đọc và với sinh hoạt văn học - văn chương mang tinh thần dân chủ, việc công bố các nhận xét, ý kiến... đó là hết sức bình thường.
Vấn đề còn lại là cần phân biệt xem chúng có phải là sản phẩm lý luận - phê bình hay chỉ là “phó sản” của lý luận - phê bình. Tôi cho rằng tiêu chí để phân biệt sự khác nhau chính là ở thao tác có tính khoa học hay không có tính khoa học của người viết. Dẫu hay - dở thế nào thì khi bình giá tác phẩm, tác giả lý luận - phê bình đích thực cũng phải dựa trên nền tảng một (các) lý thuyết, đây là tiền đề giúp họ đi từ các cảm nhận chủ quan tới các kết luận khách quan trên cơ sở khảo chứng, luận chứng từ góc độ của một (các) lý thuyết.
Còn ở tác giả viết phê bình cảm luận, “thấy thế nào viết thế ấy” thì có thể không phải tuân thủ yêu cầu nghiêm ngặt của khoa học và cũng không có gì là đáng trách. Điều đáng trách là ở chỗ người ta đánh đồng những cảm luận ấy với lý luận - phê bình.
Dăm năm trở lại đây, cuộc khủng hoảng về lý thuyết văn học, sự lười nhác của một số nhà lý luận - phê bình, sự ra đời của một số tác phẩm văn chương “lạ” về tư tưởng - nghệ thuật... cùng với sự lên ngôi của báo chí đã đưa tới sự có mặt tràn lan của vô số bài lý luận - phê bình mà ở đó yếu tố cảm luận chủ quan đã lấn át, làm biến dạng sự nghiêm cẩn cần thiết của lý luận - phê bình. Trách cứ sự yếu kém của lý luận - phê bình mới là một mặt, mặt khác là sự hăng hái tham gia vào sinh hoạt lý luận - phê bình của một số tác giả mà ngay cả các công cụ lý thuyết cũng chỉ vỏn vẹn trong mấy bài giảng đã nghe, mấy cuốn giáo trình đại học đã đọc từ hàng chục năm trước.
Đáng tiếc là với sự dễ dãi đến hồn nhiên, với sự xâm lấn của yếu tố “ngoài văn học” (như là những chiêu thức lăng-xê hàng hoá chẳng hạn)... các bài lý luận - phê bình như vậy vẫn được đăng tải tràn lan, mà kết quả, nếu không là sự vô ích thì cũng gây ra các xì-căng-đan giúp vào việc bán báo nhiều hơn là giúp vào sự phát triển của lý luận - phê bình. Theo dõi triệt để và luôn luôn cố gắng lý giải hiện tượng từ bản chất của nó, tôi cho rằng quan niệm hời hợt và xu hướng “phổ thông hoá” đã đẩy nền phê bình của chúng ta vào tình trạng “có cũng như không”.
Đáng trách là trong khi có nhà văn nhà thơ đưa ra nhận xét hoặc viết phê bình một cách dễ dãi thì lại có nhà phê bình đã đưa ra các sản phẩm không thua kém gì về chất lượng.
Cho nên, trong khi tôi không ngạc nhiên vì có nhà thơ sử dụng tác phẩm của Nguyễn Khuyến để chứng minh một phẩm chất của thơ Đường hay một nhà văn quả quyết “hơn 90% sách in ra hiện nay là để vứt vào sọt rác”..., thì tôi lại rất ngạc nhiên vì có nhà phê bình đã phê phán nhà văn Nguyễn Ngọc Tư “lạm” dụng phương ngữ trong truyện ngắn Cánh đồng bất tận và một nhà phê bình khác lại đề xuất một ý kiến vớ vẩn rằng đã có “văn học trẻ” phải có “phê bình trẻ”, theo đó mà suy ra thì dần dà sẽ có cả... “phê bình già”, “phê bình về hưu”?!
4. Hàng nghìn năm trước, một trong ba nghịch lý do một triết gia ở Hy Lạp cổ đại đưa ra có tên gọi là “nghịch lý của sự hiểu biết”, có thể diễn giải nghịch lý đó một cách đơn giản là khi những điều “đã biết” về thế giới, về chính bản thân con người tăng lên thì những điều “chưa biết” về thế giới, về chính bản thân con người cũng tăng lên.
Dẫu chỉ là xét đoán theo hình thức thì nghịch lý ấy cũng cho chúng ta thấy tri thức là một “hệ thống mở”, không có giới hạn và luôn ở trong xu thế ngày càng phát triển theo cả chiều rộng cũng như chiều sâu. Theo tôi, từ đó có thể suy ra rằng con người khó lòng có thể sử dụng tri thức của ngày hôm qua để giải quyết các vấn đề của ngày hôm nay nếu không biết “nâng cấp” các tri thức đã có.
Với lý luận - phê bình cũng vậy, chiều kích của sự phát triển tri thức chuyên ngành có nền gốc từ hệ thống các lý thuyết đã xác lập được cùng thái độ làm nghề của các tác giả.
Trên thực tế và cũng là đối tượng của văn học, sự tiếp cận và “nghiền ngẫm” về hiện thực để hình thành các ý nghĩa tư tưởng - nghệ thuật trong tác phẩm của nhà văn là đa dạng, sinh động, gắn liền với sự vận động trong đời sống tinh thần của xã hội - con người, tức là để khám phá thế giới của các tác phẩm văn chương ở thời hiện đại, chúng ta không thể chỉ sử dụng các tri thức đã đúc kết từ các giai đoạn trước.
Sau 20 năm, đã đến lúc chúng ta phải khẳng định với nhau rằng lý luận - phê bình của chúng ta chưa phát huy được vai trò tích cực của nó đối với hoạt động sáng tác của nhà văn cũng như đối với thị hiếu văn chương của công chúng.
Tình trạng lúng túng, loay hoay của lý luận - phê bình những năm gần đây chủ yếu và trước hết là do sự lạc hậu về lý thuyết, và bên cạnh đó, diễn biến phức tạp cùng các biểu hiện bất cập trong quan niệm và thao tác nghề nghiệp của nhiều tác giả khi viết lý luận - phê bình đã đẩy lĩnh vực này tới sự nhiễu loạn, làm ảnh hưởng tới uy tín (nếu không nói là suy giảm sự tin cậy) trước nhãn quan chung của xã hội.
Phấn đấu để có tác phẩm chất lượng cao - tất nhiên phải là công việc của nhà văn nhà thơ, song trong mối quan hệ hữu cơ, lý luận - phê bình cũng có một vai trò quan trọng trong khi thẩm định các sản phẩm, đưa ra gợi ý về sáng tác và tiếp nhận...
Muốn làm được điều đó, các nhà lý luận - phê bình cũng phải tự nâng mình lên, không phải để theo kịp với sáng tác mà trước hết là để nâng cao trình độ, hiện đại hoá nghề nghiệp của mình. Vì lẽ, sự phong phú và tính tiên tiến của lý thuyết chỉ có ý nghĩa khi mỗi người làm lý luận - phê bình có ý thức nghiêm túc đối với công việc để làm ra những sản phẩm có khả năng luận chứng một cách thuyết phục.
Cuối cùng để kết thúc, xin được khuyến nghị với các toà soạn và cơ quan xuất bản cần chú trọng hơn nữa đối với việc công bố các sản phẩm có liên quan tới lý luận - phê bình, bởi sự chọn lọc nghiêm khắc ở các cơ quan này cũng là thành tố quan trọng trong việc lập lại trật tự và phát triển nền lý luận - phê bình của chúng ta.