Xây dựng thị trường tranh trong nước

Lâu nay, việc mua bán các tác phẩm mỹ thuật Việt Nam phần lớn do người nước ngoài thực hiện. Thị trường này từng có thời kỳ "hoàng kim" với các bộ tứ họa sĩ nổi tiếng và một số tên tuổi danh họa thời kỳ đầu, được nhiều nhà sưu tập trên thế giới tìm kiếm.

Song gần đây, hoạt động này đã chững lại bởi nhiều nguyên nhân. Một trong những mục tiêu quan trọng trong Quy hoạch phát triển ngành mỹ thuật đến năm 2020, tầm nhìn 2030đang được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch hoàn chỉnh là xây dựng, phát triển thị trường mỹ thuật trong nước.

Tranh sơn mài Hai thiếu nữ và em bé của Tô Ngọc Vân, tác phẩm được xếp vào hàng Bảo vật quốc gia, từng bị làm giả trên thị trường.
Tranh sơn mài Hai thiếu nữ và em bé của Tô Ngọc Vân, tác phẩm được xếp vào hàng Bảo vật quốc gia, từng bị làm giả trên thị trường.

Có hay không thị trường mỹ thuật trong nước?

Thị trường mỹ thuật ở Việt Nam theo nghĩa rộng có lịch sử khá lâu đời. Khởi đầu là việc buôn bán các tác phẩm mỹ thuật trong dân gian như ở các làng nghề thủ công hoặc các "thợ vẽ" vẽ chân dung theo đơn đặt hàng của các nhà thờ họ hay quan lại, quý tộc, vua chúa thời phong kiến. Tiếp đó, thời kỳ Pháp thuộc, khoảng những năm 1900 - 1915, qua các triển lãm thuộc địa được tổ chức ở Pháp và Việt Nam, tác phẩm mỹ thuật, mỹ nghệ trong nước bắt đầu tham gia vào các hoạt động thị trường quốc tế mà chủ yếu là Pháp với những mặt hàng khá đa dạng như đúc đồng, chạm khảm gỗ, khảm trai, mỹ nghệ, kim hoàn, thêu, lụa... Người Pháp đã thành lập khá nhiều trường mỹ nghệ ở Việt Nam như Trường Mỹ nghệ Thủ Dầu Một (năm 1901), Trường Mỹ nghệ Biên Hòa (năm 1903), Trường vẽ Gia Định (năm 1913)... nhằm đào tạo thợ lành nghề cho việc khai thác các sản phẩm thủ công. Theo nghĩa hẹp, thị trường mỹ thuật là thị trường buôn bán các sáng tác mỹ thuật của họa sĩ được hình thành khoảng những năm 20 của thế kỷ 20. Giai đoạn này thị trường có yếu tố manh nha khi các tác phẩm bắt đầu được giới thiệu trong các triển lãm đấu xảo quốc tế. Sau khi Trường cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương được thành lập vào năm 1925, cùng với việc tham gia các triển lãm, hiệp đoàn, tổ chức, việc buôn bán các tác phẩm mỹ thuật cũng bắt đầu được hình thành, song chưa cấu thành một thị trường có tính chất chuyên nghiệp.

Nhà sưu tập Đức Minh có thể xem là người đầu tiên mua tranh của họa sĩ Việt Nam khoảng những năm 30 của thế kỷ 20. Giai đoạn 1928-1943, các họa sĩ lớn như Tô Ngọc Vân, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Gia Trí... bán được tranh của mình. Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, chủ yếu là sau năm 1954, hòa bình lập lại ở miền bắc, việc trao đổi buôn bán giữa các cá nhân và họa sĩ vẫn được tiếp tục. Nhà sưu tập tranh Lâm cafeở Hà Nội được hình thành dưới hình thức trao đổi, cho tặng các tác phẩm.

Việc nở rộ của thị trường mỹ thuật ở Việt Nam có lẽ bắt đầu sau thời kỳ đổi mới, mở cửa. Giữa thập niên 80 của thế kỷ 20, hai bộ tứ các họa sĩ "Trí, Lân, Vân, Cẩn" và "Nghiêm, Liên, Sáng, Phái" từng được quốc tế tìm kiếm thông qua con đường ngoại giao và các phiên đấu giá; đó là chưa nói đến nhiều tên tuổi thời kỳ đầu nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại như Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Lê Thị Lựu, Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Tiến Chung, Lê Văn Đệ, Lương Xuân Nhị, Tạ Tỵ, Tôn Thất Đào... Đầu thập niên 90 đến nay, các thế hệ họa sĩ tiếp nối mau chóng tham gia vào được thị trường, như Nguyễn Thanh Bình, Đỗ Quang Em, Thành Chương, Lê Thanh Sơn, Hồng Việt Dũng, Phạm Luận, Lê Thiết Cương, Đào Hải Phong... Thị trường mỹ thuật với các địa chỉ có tiếng tập trung ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh như các ga-lơ-ry Thanh Mai Aricot, Cọ Xanh, Đông Sơn, Ngàn Phố...; các nhà sưu tập Trần Hậu Tuấn, Đào Danh Anh, Nguyễn Quốc Trí... Có thể thấy đến nay, thị trường mỹ thuật Việt Nam đã tồn tại, phát triển với đầy đủ các cung bậc thăng trầm. Tuy nhiên dù đã có những thành tố, tổ chức tham gia như ga-lơ-ry, nhà sưu tập trong và ngoài nước, bảo tàng mỹ thuật, nhà đấu giá (nước ngoài), nhà phê bình... cùng các hoạt động truyền thông, PR..., nhưng thực tế thị trường vẫn phát triển một cách manh mún, chủ yếu nằm ở ngoài phạm vi quốc gia.

"Đại nạn" tranh giả và những hệ lụy

Giữa thập niên 80, khi haibộ tứcủa mỹ thuật Việt Nam được quốc tế tìm kiếm thì gần như ngay lập tức, tình trạng tranh giả, nhất là tranh chép, tranh nhái tác phẩm của các tác giả này xuất hiện tràn lan và ngày càng tinh vi. Tranh của Nguyễn Phan Chánh, Bùi Xuân Phái cũng là hai trường hợp điển hình của nạn tranh giả. Một thời gian dài, tại nhiều phiên đấu giá quốc tế và Đông - Nam Á của các nhà đấu giá danh tiếng như Sotheby's, Christie's..., tranh Việt Nam rất được chú ý. Nhưng mấy năm gần đây họ gần như "ngoảnh mặt", bởi sự xuất hiện không ít tác phẩm kém chất lượng, hoặc giả, nhái. Một sự thật khó tin là tác phẩm sơn dầu nổi tiếng Hai thiếu nữ và em bécủa danh họa Tô Ngọc Vân được một nhà sưu tập trưng bày ở Bảo tàng Phu-cô-ca, Nhật Bản cũng là tranh... giả, còn bức thật hiện nằm tại Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam (!).

Trong nước, tranh giả, tranh nhái của các họa sĩ tên tuổi tràn ngập các cửa hàng. Ngay tại các triển lãm lớn cũng từng có tranh chép lọt vào đến vòng giải thưởng như vụ việc tranh Bình minh trên công trường của Lương Văn Trung tại Triển lãm Mỹ thuật toàn quốc năm 2005; tranh cổ động của Nguyễn Trung Kiên tại một triển lãm năm 2009 chép nguyên xi một bức ảnh. Cách đây không lâu, một sự kiện hy hữu xảy ra tại một galơ-ry trên phố Tràng Tiền là họa sĩ Văn Thơ vì quá bức xúc đã đến rạch nát bức tranh bị nhái của mình. Và một "cú sốc" lớn vừa đến với giới mỹ thuật nước nhà: Bình văncủa Lê Huy Miến, bức tranh được xem là tác phẩm sơn dầu đầu tiên của nền hội họa hiện đại Việt Nam cũng bị phát hiện cop-py cả ý tưởng và bố cục một bức ảnh của tác giả người Pháp. Viện Mỹ thuật thuộc Đại học Mỹ thuật Việt Nam vừa tổ chức hội thảo về vụ việc này nhưng chưa có kết luận...

Thực tế, "đại nạn" tranh giả, tranh nhái, tranh chép tràn lan cùng xu hướng tranh chiều thị hiếu đã khiến cho thị trường mỹ thuật Việt trở lên hỗn loạn, mất uy tín với khu vực và quốc tế.

Đẩy mạnh thị trường trong nước Lâu nay, những tác phẩm hội họa có giá trị của Việt Nam luôn được các bảo tàng, nhà sưu tập nước ngoài tìm mua. Trong nước, hai Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam và Mỹ thuật TP Hồ Chí Minh hằng năm đều có mua để lưu giữ nhưng với số lượng rất ít. Nhìn chung, hoạt động mua bán tranh đều do người nước ngoài điều tiết. Trong khi đó, để có được một thị trường đúng nghĩa cần phải có khách hàng trong nước. Thị trường trong nước không chỉ để mua bán mà còn có vai trò thẩm định, định giá, giữ giá... tác phẩm. Khoảng mười năm gần đây, tranh Việt Nam mất dần ưu thế trên thị trường quốc tế. Lý do chính là thiếu thị trường trong nước lành mạnh; thiếu nền nghiên cứu, phê bình đúng tầm vóc; thiếu chiến lược tiếp thị cấp quốc gia. Đó là chưa nói tình trạng làm giả và phá giá vô tội vạ khiến cho tranh Việt Nam đánh mất cơ sở định giá.

Hiện nay thị trường trong nước vẫn có song yếu và không chuyên nghiệp.

Những hoạt động nhằm giới thiệu tranh Việt Nam ra thế giới vẫn theo kiểu tự phát phụ thuộc vào mối quan hệ cá nhân của nghệ sĩ hoặc ga-lơ-ry chứ chưa được tổ chức bài bản và giới thiệu, quảng bá một cách dài hơi như một chiến lược phát triển cần thiết đối với một thị trường tranh.

Đề án "Quy hoạch phát triển mỹ thuật đến năm 2020 tầm nhìn 2030" sắp được Thủ tướng phê duyệt tới đây đã chú trọng tới sự phát triển của thị trường mỹ thuật trong nước, trong đó đề cập một số giải pháp tích cực như thành lập Hiệp hội bản quyền mỹ thuật, trung tâm đấu giá; xây dựng, nâng cấp các bảo tàng mỹ thuật địa phương và khuyến khích thành lập bảo tàng tư nhân để kích cầu, tăng việc mua, sưu tầm lưu giữ tác phẩm mỹ thuật...

Làm thế nào để thị trường mỹ thuật trong nước phát triển? Họa sĩ Vi Kiến Thành, Cục trưởng Mỹ thuật, Nhiếp ảnh và Triển lãm; Phó Chủ tịch Hội Mỹ thuật Việt Nam khẳng định: "Xây dựng thị trường trong nước vừa là mục tiêu, vừa là động lực để mỹ thuật phát triển bền vững. Phải có một lộ trình cụ thể qua các khâu giáo dục - nhận thức -đánh giá đúng vai trò và giá trị tác phẩm, từ đó xây dựng thị trường mỹ thuật đúng nghĩa. Cần coi tác phẩm mỹ thuật cũng là một loại hàng hóa đặc biệt; ngoài các giá trị về thẩm mỹ, nhân văn, nó còn là một tài sản độc đáo để có thể đầu tư lâu dài, có lãi".

Có thể bạn quan tâm