Quân đội ta do Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp sáng lập, tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, được Nhà nước tập trung xây dựng, được nhân dân nuôi dưỡng, sát cánh cùng chiến đấu. Suốt chặng đường 70 năm chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, không ngừng phát triển và trưởng thành, càng đánh càng mạnh, đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược và trở thành một quân đội có đầy đủ sức mạnh bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Quân đội ta, ngay từ lúc khai sinh đã khẳng định mục tiêu và phương châm hành động là “Từ nhân dân mà ra. Do nhân dân nuôi dưỡng. Vì nhân dân mà chiến đấu” nghĩa là “của dân, do dân, vì dân”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, mầm mống lực lượng vũ trang cách mạng của nhân dân đã ra đời vào những năm 1930 - 1931 trong phong trào Xô Viết Nghệ - Tĩnh - Đội tự vệ Đỏ, Đội tự vệ Công nông, nhằm chiến đấu chống quân thù khủng bố, đàn áp; bảo vệ quần chúng và phong trào cách mạng, bảo vệ chính quyền cách mạng và làm công tác vận động quần chúng. Những năm 1939 - 1945, thời kỳ chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, các tổ chức tiền thân của Quân đội nhân dân đã ra đời như Đội du kích Bắc Sơn, Quân du kích Nam Kỳ, Cứu quốc quân, Đội quân du kích Ba Tơ,… Ngày 22-12-1944, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, nay trở thành ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam - Ngày hội Quốc phòng toàn dân.
Từ ngày thành lập đến nay, Quân đội ta đã cùng toàn dân chiến đấu, chiến thắng mọi kẻ thù xâm lược đã đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi với trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ 1954; Quân đội ta cùng với nhân dân cả nước đập tan “sức mạnh không lực Hoa Kỳ” trong cuộc chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ. Kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta (1954- 1975) bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Những năm tiếp theo, lực lượng vũ trang nhân dân cùng với toàn dân đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược ở hai đầu đất nước, góp phần tích cực và bảo vệ công cuộc lao động hoà bình, ổn định đất nước, tăng cường sức mạnh quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc (BVTQ). Cùng với những chiến công oanh liệt, Quân đội nhân dân Việt Nam mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như những biểu hiện sáng ngời về một quân đội của dân, do nhân dân, vì nhân dân mà chiến đấu, Quân đội nhân dân đã ghi vào lịch sử dân tộc những bài học vô giá. Bài viết xin đề cập mấy bài học sau:
Thứ nhất: Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nhân tố quyết định bản chất cách mạng, sự trưởng thành và chiến thắng của Quân đội nhân dân Việt Nam. Có sự lãnh đạo của Đảng, quân đội nhân dân mới có bản chất cách mạng tốt đẹp, triệt để của giai cấp công nhân, có mục tiêu chiến đấu và đường lối xây dựng đúng đắn.
Đảng đã giáo dục cho quân đội ta lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và biết tự giác phấn đấu cho lý tưởng cao đẹp đó. Sự lãnh đạo của Đảng bao quát cả ba thứ quân, cả các quân chủng, binh chủng, ngành nghề chuyên môn nghiệp vụ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội nhân dân Việt Nam đã trở thành công cụ tin cậy, sắc bén, một lực lượng tinh thông thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng một cách sáng tạo. Có sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng là nhân tố quyết định sự trưởng thành và chiến thắng của quân đội ta.
Thứ hai: Xây dựng Quân đội nhân dân mang bản chất giai cấp công nhân, có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc. Quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, vì nhân dân phục vụ, được nhân dân hết lòng chăm sóc, nuôi dưỡng giúp đỡ.
Quân đội ta có bản chất cách mạng của giai cấp công nhân và truyền thống tốt đẹp của nhân dân lao động “Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội. Nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng” . Nhân dân luôn là người thầy vĩ đại trực tiếp giáo dục, rèn luyện; là người mẹ hiền luôn che chở nuôi dưỡng bộ đội trong mọi hoàn cảnh; là người sáng tạo ra nhiều cách đánh giặc tài tình, độc đáo, cùng với lực lượng vũ trang nhân dân nói chung và Quân đội ta nói riêng, tạo nên thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Quân đội ta là Quân đội nhân dân, do dân đẻ ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Nhân dân là nền tảng, là cha mẹ của bộ đội” . Quân đội ta ra đời trên cơ sở lực lượng chính trị và phong trào đấu tranh chính trị của quần chúng nhân dân, quân đội được tôi luyện trưởng thành trong cuộc đấu tranh cách mạng gay go quyết liệt của nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Với ý chí: “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi”, “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!” , toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta quyết đem hết sức lực, tài năng, trí tuệ và xương máu để thực hiện lời dạy thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Làm cho “nước ta được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành” . Đó là mục tiêu chiến đấu cơ bản lâu dài, bất biến của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Thứ ba: Xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức làm cơ sở để nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị là nguyên lý cơ bản nhất trong học thuyết Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội kiểu mới của giai cấp công nhân. Đó là bài học quý báu nhất của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết và phát triển từ kinh nghiệm xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc.
Có sự lãnh đạo của Đảng, Quân đội ta luôn luôn lấy việc xây dựng về chính trị làm cơ sở để nâng cao sức mạnh chiến đấu tổng hợp, thường xuyên tăng cường hiệu lực công tác Đảng, công tác chính trị. Khi đã có Nhà nước, trở thành một bộ phận của Nhà nước, Quân đội ta tuân thủ Hiến pháp và pháp luật.
Thứ tư: Quân đội ta xây dựng, trưởng thành và chiến thắng theo nguyên lý vũ trang toàn dân, tính nhân dân và tính dân tộc cao. Có sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng, quân đội mới giữ vững bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc của Quân đội nhân dân. Đường lối cách mạng, đường lối quân sự, đường lối chiến tranh nhân dân và quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân của Đảng là ngọn cờ bách chiến, bách thắng của quân đội ta. Đi theo ngọn cờ đó, từ nhỏ đến lớn, từ yếu thành mạnh, càng đánh càng mạnh và lập nên những chiến công rực rỡ.
Ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và BVTQ, chúng ta cần nghiên cứu, phát triển nghệ thuật tác chiến chống các hoạt động vũ trang phản cách mạng, chống lấn chiếm biên giới , vùng trời, vùng biển, đảo,… Nghiên cứu phát triển nghệ thuật quân sự của chiến tranh nhân dân chống chiến tranh xâm lược kiểu mới của địch có sử dụng “vũ khí kỹ thuật cao”, “vũ khí tinh khôn”. Nghiên cứu nghệ thuật đánh địch từ xa nhằm ngăn chặn, vô hiệu hoá các cuộc tiến công của địch bằng các phương tiện vũ khí công nghệ cao; nghiên cứu dự báo chiến lược và nghiên cứu hoàn chỉnh Học thuyết Quốc phòng Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới.
Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn mới, cần làm tốt một số nội dung cơ bản là: Kết hợp chặt chẽ xây dựng đội ngũ sĩ quan với đội ngũ đảng viên trong quân đội, bảo đảm chất lượng chính trị cao. Đội ngũ sĩ quan được xây dựng chuyên sâu quân sự, chính trị - quân sự và kỹ thuật quân sự theo ba cấp: sơ cấp, trung cấp, cao cấp (hoặc cấp chiến thuật, cấp chiến dịch, cấp chiến lược).
Tập trung xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng cho đội ngũ sĩ quan có lập trường của giai cấp công nhân, yêu nước, thương dân, trung thành tuyệt đối với chế độ XHCN, với Đảng, với Nhà nước, chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ quốc; vì quyền lợi cơ bản của nhân dân, của dân tộc.
Xây dựng, đào tạo đội ngũ sĩ quan, cán bộ chuyên môn kỹ thuật trong Quân đội nhân dân không phải là việc riêng của quân đội. Đó là trách nhiệm chung của Đảng và Nhà nước. Vì thế, xây dựng, đào tạo đội ngũ cán bộ quân đội cần được Nhà nước xác định theo quy hoạch chiến lược chung; kết hợp chặt chẽ với hệ thống giáo dục đào tạo của Đảng và Nhà nước trong việc tạo nguồn, nội dung chương trình, thời gian đào tạo ở cả trong và ngoài nước.