Xây dựng lực lượng vũ trang trong tổng khởi nghĩa

ND - Nghị quyết Hội nghị T.Ư 8 (5-1941) xác định: "... Cuộc cách mạng Ðông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang...". Khi vấn đề khởi nghĩa giành chính quyền đã đặt ra thì việc tổ chức một đạo quân cách mạng và xây dựng căn cứ địa cách mạng là điều kiện quyết định không thể thiếu.

Từ năm 1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã dự báo: Ðể cách mạng thắng lợi, sẽ có "một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Ðông Dương" ... "cuộc khởi nghĩa đó có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng..." (1). Việc cần phải tổ chức ra quân đội công nông để "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến" được khẳng định từ Chính cương vắn tắt của Ðảng do Người soạn thảo và đã được Hội nghị hợp nhất thành lập Ðảng thông qua.

Hội nghị T.Ư 8 (5-1941) quán triệt tư tưởng quân sự Chủ tịch Hồ Chí Minh, xúc tiến mạnh mẽ công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, cũng là mốc lịch sử đánh dấu bước phát triển, hoàn thiện những quan điểm của Ðảng về vũ trang khởi nghĩa ở Việt Nam. Ðây là quá trình chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang theo đường lối, chủ trương sáng suốt của Ðảng: Ðó là cuộc khởi nghĩa vũ trang giành độc lập do toàn thể dân tộc tiến hành. Hình thái của cuộc khởi nghĩa là tiến lên từ khởi nghĩa từng phần, ở từng địa phương tới khởi nghĩa toàn quốc - Tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Trên cơ sở khối đại đoàn kết toàn dân, mở rộng và xây dựng lực lượng chính trị vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên tiên phong để làm nòng cốt tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang. Lực lượng quân sự của cách mạng được xây dựng từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, từ tự vệ cứu quốc đến tiểu tổ du kích rồi phát triển thành đội du kích chính thức (du kích thoát ly).

Dưới chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Ðảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, trong những năm 1941 - 1944, các đội du kích, đội tự vệ được xây dựng ở nhiều xã, nhiều huyện thuộc tỉnh Cao Bằng. Ðội du kích Bắc Sơn được củng cố và phát triển thành các Trung đội Cứu quốc quân.

Tư tưởng chỉ đạo việc xây dựng và tác chiến của đội quân cách mạng đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ trong Chỉ thị thành lập Ðội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân (tháng 12-1944): "... Vì cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân, cho nên trong khi tập trung lực lượng để lập một đội quân đầu tiên, cần phải duy trì lực lượng vũ trang trong các địa phương cùng phối hợp hành động và giúp đỡ về mọi phương diện. Ðội quân chủ lực trái lại có nhiệm vụ dìu dắt cán bộ vũ trang của các địa phương, giúp đỡ huấn luyện, giúp đỡ vũ khí nếu có thể được làm cho các đội này trưởng thành mãi lên...". (2)

Tuy quy mô còn nhỏ, quân số không đông, vũ khí còn thô sơ khi mới thành lập nhưng tiền đồ của lực lượng vũ trang cách mạng vẻ vang. Ðội quân này có thể đi suốt từ nam chí bắc, khắp đất nước Việt Nam.

Chỉ thị thành lập Ðội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân có thể coi là cương lĩnh quân sự đầu tiên của Ðảng đánh dấu bước hoàn chỉnh lý luận về xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong thời kỳ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa.

Chiến tranh du kích và căn cứ địa là hai yếu tố cơ bản của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước kẻ địch đang chiếm ưu thế về sức mạnh quân sự. Sau Hội nghị T.Ư 8, ở những nơi phong trào Việt Minh phát triển có các đội tự vệ, đội du kích vững mạnh, các căn cứ địa cách mạng cũng manh nha hình thành.

Mức độ thấp của các khu căn cứ địa cách mạng trong cuộc Cách mạng Tháng Tám là các khu an toàn. Trong các khu an toàn có cơ sở cách mạng vững, có tổ chức vũ trang tự vệ mạnh và những điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ và liên lạc. Nhiều tỉnh đã xây dựng được các khu an toàn của tỉnh mình. Thậm chí các khu an toàn của cơ quan Trung ương Ðảng được xây dựng tại vùng ven Hà Nội, chỉ cách trung tâm thành phố từ 15 đến 20 km như Vạn Phúc (Hà Ðông); Ðình Bảng (Bắc Ninh)...

Các khu an toàn dần phát triển thành các khu du kích trong cao trào kháng Nhật cứu nước trước Tổng khởi nghĩa. Hai khu du kích đầu tiên được xây dựng là khu căn cứ Cao Bằng do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, với hoạt động của đội vũ trang Cao Bằng và khu căn cứ Bắc Sơn - Vũ Nhai do Trung ương Ðảng trực tiếp tổ chức xây dựng. Tới cuối năm 1943, hai khu căn cứ địa nối liền với nhau, tạo nên thế liên hoàn, vững chắc làm tiền đề cho sự ra đời Khu giải phóng Việt Bắc (6-4-1945), gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và vùng ngoại vi.

Các khu du kích ở các địa phương khác cũng phát triển mạnh. Với vũ khí thô sơ, tự tạo và cướp được của giặc, các đội du kích vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng.

Tại các chiến khu, lực lượng vũ trang cách mạng hoạt động mạnh: Tiến công đồn lính, phục kích, cướp vũ khí, chống càn quét khủng bố... Các căn cứ kháng Nhật trên các địa bàn quan trọng như chiến khu Trần Hưng Ðạo (Ðông Triều), chiến khu Quang Trung (Hòa - Ninh - Thanh); chiến khu Vần - Hiền Lương (Phú Thọ - Yên Bái), khu du kích Ba Tơ... đã có những tác động to lớn trực tiếp thúc đẩy phong trào cách mạng tại chỗ phát triển đồng thời chi viện lực lượng, hỗ trợ đấu tranh cho các địa phương khác đặc biệt là trong những ngày Tổng khởi nghĩa.

Hệ thống căn cứ địa cách mạng rộng lớn được Ðảng dày công xây dựng đã góp phần quan trọng vào thắng lợi nhanh chóng của Cách mạng Tháng Tám.

Ở Nam Bộ, sau khởi nghĩa Nam Kỳ, phong trào cách mạng bị địch khủng bố trắng. Trong điều kiện khó khăn, Xứ ủy Nam Kỳ và các Ðảng bộ tỉnh đã phấn đấu xây dựng, phát triển lực lượng chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.

Sau ngày 9-3-1945, Xứ ủy Nam Kỳ đã kịp thời lập ra Thanh niên Tiền phong để tập hợp thanh niên cùng nhiều tầng lớp xã hội khác vào những hoạt động yêu nước. Hầu hết các đơn vị Thanh niên Tiền phong đều do cán bộ đảng lãnh đạo. Lãnh đạo tổ chức này là bác sĩ Phạm Ngọc Thạch, một đảng viên cộng sản. Lực lượng vũ trang của cách mạng cũng được tuyển chọn xây dựng từ đội ngũ Thanh niên Tiền phong, đến tháng 8-1945, quân số đã đạt khoảng 20 nghìn người. Ngày 20-8-1945, ở Sài Gòn, Việt Minh ra công khai. Ngày 22-8-1945, Thanh niên Tiền phong tuyên bố gia nhập Việt Minh và trở thành một thành viên của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ. Ðảng bộ Nam Kỳ đã có một lực lượng vũ trang đủ mạnh để hỗ trợ nhân dân làm nên thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Sài Gòn - Chợ Lớn và toàn bộ các tỉnh ở Nam Bộ những ngày sau đó.

Trong khí thế sục sôi cách mạng, tháng 5-1944, Tổng bộ Việt Minh ra "Chỉ thị về sửa soạn khởi nghĩa". Tháng 8-1944, Việt Minh lại ra lời kêu gọi: "Sắm võ khí! Ðuổi thù chung". Khắp nơi, nhân dân hăng hái góp tiền mua sắm, chế tạo vũ khí, củng cố và phát triển các đội tự vệ, tích cực huấn luyện quân sự...

Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ (15-5-1945) đã thống nhất Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân thành Giải phóng quân. Lúc này lực lượng vũ trang chính quy tập trung của cách mạng đã phát triển thành nhiều chi đội (tương đương cấp trung đoàn) với hàng nghìn chiến sĩ. Giải phóng quân được nhân dân đùm bọc, càng đánh càng mạnh, càng giành thắng lợi lớn hơn.

Quá trình lãnh đạo toàn dân chuẩn bị lực lượng và kiên quyết tiến hành khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nền móng cho sự hình thành nền nghệ thuật quân sự Việt Nam hiện đại. Ðó là tư tưởng về cuộc chiến tranh cách mạng mang tính toàn dân, toàn diện, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân; tư tưởng về tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân... Và cũng từ buổi ban đầu, những phẩm chất đạo đức cao quý của những chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam đã được hình thành và ngày càng được bồi đắp.

NGÔ VƯƠNG ANH

--------------

(1) Hồ Chí Minh - Toàn tập - Nxb CTQG. Hà Nội, 2000, Tập 1, tr 468-469.

(2) Hồ Chí Minh - Toàn tập - Sđd - Tập 3, tr 507-508.

Có thể bạn quan tâm