ND - Nhờ sự kịp thời bổ sung, sửa đổi thể chế và giải quyết một số vướng mắc trong triển khai, thi công thực hiện dự án, cho nên tiến độ giải ngân vốn xây dựng cơ bản đang có dấu hiệu được cải thiện, đạt mức cao nhất trong mấy năm qua. Tuy nhiên, vẫn rất cần khắc phục hạn chế về chất lượng và hiệu quả giải ngân. Sự cần thiết của yêu cầu này phản ánh phần nào thông qua một dẫn chứng cụ thể là quản lý vốn tạm ứng đối với các dự án xây dựng công trình giao thông, được nêu sau đây.
Theo quy định cũ, các chủ đầu tư thường tạm ứng trước 10-20% giá trị gói thầu xây lắp cho đơn vị trúng thầu, dùng để mua thiết bị, vật tư, vật liệu và chi phí cho hoạt động triển khai thi công. Gần hai năm nay, Nhà nước cho phép tăng mức tạm ứng, tỷ lệ cụ thể do chủ đầu tư quyết định căn cứ vào đặc thù của dự án, không khống chế mức tối đa. Nhiều dự án giao thông đã nâng mức tạm ứng lên 30-40%, cá biệt có dự án 60-70%. Tác động tích cực trước mắt đã khá rõ: Nhiều nhà thầu vượt qua khó khăn (chủ yếu do hậu quả "mất cân đối tài chính" tích lũy từ nhiều năm), giải phóng được năng lực, mở rộng quy mô và đẩy nhanh tiến độ thi công, tăng năng suất và tạo đủ việc làm cho người lao động. Tỷ lệ vốn tạm ứng cao cũng góp phần giúp nhà thầu chủ động ứng phó trước biến động của giá cả, kịp thời mua đủ vật tư, vật liệu xây dựng (kể cả để dự trữ), không phải chờ tiền thanh toán khối lượng thực hiện và phần trượt giá (thường chậm do thủ tục phức tạp)...
Tuy nhiên, việc tăng vốn ứng trước không quy định mức tối đa cũng đã bộc lộ một số mặt hạn chế: Mức giải ngân cao, nhưng trong đó phần khối lượng đã thực hiện chưa tương xứng (theo số liệu của Kho bạc Nhà nước: nhóm dự án sử dụng vốn trái phiếu Chính phủ do Bộ Giao thông vận tải quản lý, chín tháng đầu năm nay, trong giá trị giải ngân, phần thanh toán khối lượng hoàn thành là 53,2%, còn lại số tạm ứng chiếm 46,8%; đối với nhóm dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước, hai con số tương tự nói trên là 74,9% và 25,1%). Một số dự án có giá trị tạm ứng trên giá trị giải ngân rất cao như đường Hồ Chí Minh giai đoạn II (66,57%), đường sắt Cái Lân - Yên Viên (72,16%), Vành đai III Hà Nội (75,91%). Ở đây, phải chăng vốn kích cầu đầu tư đang bị đọng, chậm phát huy hiệu quả, nhất là gặp trường hợp nhà thầu đem một phần vốn tạm ứng sử dụng không đúng mục đích? Mặt khác, nhiều ý kiến cho rằng, mức tạm ứng vốn quá cao và cách quản lý thiếu chặt chẽ có thể dẫn đến một số hậu quả như: các nhà giảm động lực đẩy nhanh tiến độ thi công hoặc thiếu tích cực trong khâu hoàn thiện các thủ tục nghiệm thu, thanh toán khối lượng đã hoàn thành, chủ đầu tư chậm thu hồi vốn hoặc khó lấy lại vốn tạm ứng trong trường hợp phải thay thế nhà thầu, để lại tác hại lâu dài...
QUANG TUẤN