Võ sư viết văn

Võ sư viết văn

Học võ để hành xử nhân văn

Võ sư Nguyễn Văn Dũng nói lời xin lỗi đầu tiên có sức nặng trong đời ông, là lời xin lỗi chính mình sau 3 năm luyện võ.

Thời ông còn nhỏ, quê ông không có trường học. Có một hướng đạo sư đến mảnh đất này mở lớp dạy chữ cho con em trong vùng. Đó là thầy Nguyễn Cao Lực, giờ đã 94 tuổi, hiện còn sống ở Huế. Song hành với việc dạy chữ, thầy thi thoảng còn dẫn học trò lên núi Bạch Mã để hướng đạo. Từ đỉnh núi hùng vĩ, cậu bé Dũng ngày ấy đã nhận ra nếu ở làng, mình cũng lại quẩn quanh với mảnh ruộng, con trâu, với cả những hủ tục lạc hậu mà "suýt" nữa trở thành nạn nhân, khi dòng họ ép phải... lấy vợ từ thuở lên mười.

Có ít chữ thầy, ông khăn gói lên thành phố dạy kèm cho con em những gia đình khá giả. Vừa dạy, ông vừa tự học. Người thầy giáo thời thơ ấu vẫn dõi theo những bước trưởng thành của ông cho đến ngày ông tự học để đỗ đạt vào Đại học Sư phạm, Khoa Văn. Vậy nhưng, ở quê nhà, thầy lại bị chính những học trò năm xưa mình gieo chữ làm nhục khi sự kiện chính quyền Diệm - Nhu bị lật đổ. Nuốt tức giận, ông tìm về quê gặp những người bạn học bất lễ ấy để hỏi đầu đuôi nhưng nếu không nhanh chân, ông cũng cùng số phận với thầy mình.

Lên lại thành phố, ông quyết chí luyện võ, bởi khi ấy ông chỉ nghĩ đơn giản, học võ để trả thù. Ngày luyện, đêm luyện, bao lần thi đấu bầm dập mặt mũi. Hai năm đầu, càng rèn luyện ông càng thấy mục đích của mình rất gần. Ngày có được đai đen, ông ngẫm lại: "Tại sao chỉ vì trả thù mà mình phải khổ đến từng ấy năm nhỉ? Nếu chỉ thế, có thể mượn khẩu súng hay con dao. Học võ đến như thế này rồi mà mục đích chỉ có vậy sao?".

Ông tìm gặp từng người một, nói rõ cái món nợ với những kẻ phản thầy ba năm trước. "Cách tính nợ với các anh bây giờ không phải là cú đấm hay sẽ làm với các anh cái điều như các anh đã làm với thầy, mà tôi tha hết cho các anh!". Ông cảm thấy nhẹ bẫng khi nói ra điều đó, như chính trong lòng ông những uất ức cũ xưa đã được giải thoát. Sau này trong số ấy, có người đã trở thành bạn tốt của ông. Đó là lời xin lỗi với chính mình trong nghiệp võ.

Câu chuyện ấy đã được ông áp dụng khi dạy các võ sinh của mình. Những năm đầu xây dựng Võ đường Nghĩa Dũng (số 8 Võ Tánh, TP Huế), rất nhiều phụ huynh đưa con em tìm đến theo học bằng được thầy Dũng, bởi họ đã nghe tiếng thầy không chỉ vì võ nghệ mà chính là bài học đầu tiên cho một người học võ. Đó là: "Học võ để nói một lời xin lỗi, một lời cảm ơn. Khi nói được hai lời đó thì các con sẽ nói được nhiều điều nữa".

Võ sinh đến học võ nơi ông, không phải ai cũng đến với một thiện chí võ nghệ. Ông nói rằng, nếu ai sai phạm mà nói lời xin lỗi không thật lòng, thì bằng trái tim của người thầy, hãy để họ nói một cách chân thành nhất. Có một lời xin lỗi của học trò mà ông nhớ suốt đời dạy võ. Một thời gian võ đường thường xảy ra các vụ mất cắp, dù chưa bắt tận tay nhưng mọi người nghi hoặc một phụ tá. Người này thường đi muộn, về sớm và lựa thời cơ, có thể "chôm chỉa" tiền bạc và đồ trang sức của các võ sinh nữ.

Sau khi bố trí, ông và các võ sinh đã bắt tận tay kẻ lấy cắp. Cách xử lý của ông là: gọi hỏi nhẹ nhàng. Kẻ lấy cắp vẫn quanh co chối tội. Kiểm tra các túi, không thể chối cãi nữa. "Hoặc là thầy gọi các võ sinh cho em một trận, hoặc gọi điện về nhà báo cho bố mẹ, hoặc gọi điện cho nhà trường hay báo công an, em có thể ngồi tù. Nhưng thầy không làm thế, sẽ ảnh hưởng đến tương lai của em. Nếu sau này em còn lặp lại chuyện lấy cắp, người khác bắt được và làm những điều như thầy vừa nói với em thì em hãy nhớ lại, trên cuộc đời này vẫn còn có người tốt với mình...".

Võ sinh ấy quỳ xuống. "Thầy và các bạn nhận cho em lời xin lỗi này". Cũng từ đó vì xấu hổ anh ta không đến võ đường nữa. Gần 20 năm sau, tức là mới mùa hè năm nay, khi ông cùng vợ con đi ăn trưa thì có tiếng gọi: "Thầy!". Ông quay lại, đó chính là người đã nói lời xin lỗi năm xưa, giờ đây là chủ một nhà hàng ở Huế.

Học võ theo ông, có được võ là cái quan trọng. Nhưng có cái bản lĩnh vượt lên cái võ, và cách hành xử nhân văn trong võ, mới quan trọng hơn. Điều đó lý giải tại sao mấy chục năm qua, những đệ tử của ông học hết đai, hết đẳng lại tiếp tục thi vào các trường đại học. Có nhiều người có đến hai bằng đại học, rồi du học nước nọ nước kia và thành danh trên nhiều lĩnh vực khác nhau.

Viết văn bằng võ

Tốt nghiệp Khoa Văn, ông về giảng dạy ở Trường Quốc học Huế, rồi sau đó được chuyển lên công tác ở Sở Giáo dục Thừa Thiên-Huế. Sau một thời gian ông xin nghỉ việc để trở về đi tiếp nghiệp võ.

Mỗi năm một lần, trước khi các võ sinh chuẩn bị thi đai đen, ông lại tổ chức cho các võ sinh đi bộ 40 em lên núi Bạch Mã để luyện tính kiên trì. Mỗi người đeo một ba lô 15 kg, mấy cân đỗ, mấy miếng đường nấu chè gạo và thức ăn khô. Đây là thử thách cuối cùng sau 3 năm võ sinh tập luyện.

Hành quân lên Bạch Mã là để kiểm tra tính kỷ luật, tinh thần hợp lực, sức chịu đựng, tác phong khẩn trương của võ sinh. Đi dã ngoại về mỗi võ sinh viết một bài thu hoạch, nếu võ sinh nào viết không đạt thì không được thi đấu lấy đai đen. Rất nhiều người thắc mắc, võ sư Dũng giải thích rằng lên đỉnh núi là để võ sinh nhìn xa hơn, thấy mình là ai giữa thiên nhiên, nhìn được những gì xa hơn. Ông muốn chứng minh cho học trò rằng người có võ, nếu chỉ mạnh về tay chân thì chưa đủ.

Một lần đứng nhìn đất trời Bạch Mã giữa đêm khuya, ông đã nhận ra: "Chiều hôm qua một đạo quân không làm tôi sợ. Tối hôm nay tôi sợ bóng mình". Ngọn núi ấy cho ông thấy rằng, chiến đấu với chính bản thân mình không đơn giản "Một người luyện võ bao nhiêu năm, đâu rồi tố chất một văn sinh? Võ đã cho mình nhiều thứ, tại sao không khơi trong mình cái hồn văn một thuở" - ông nghĩ vậy, trước khi cầm bút viết văn.

Văn chương với ông, phải là văn chương của một người có bản lĩnh võ, của một người tự đi, tự bầm dập để viết chứ không phải khoác cho mình mũ cao áo dài để chẳng nói lên một điều gì, lại xa rời thực tế. Ông đi thực tế ở các nước trên thế giới, tiếp cận với nhiều nền văn minh. Thường sau mỗi chuyến đi, khi trở về ông viết những bút ký văn học.

Ông vừa xuất bản tập "Linh sơn mây trắng", viết về những vùng đất ông từng đặt chân đến. Là núi Phú Sĩ (Nhật Bản), là sa mạc Redsender ở Australia, là các Kim tự tháp Ai Cập, là vườn treo Babilon... Đến sa mạc Redsender, nơi 40 nghìn năm trước đã có người thổ dân Australia cư ngụ, ông lên ngọn núi Uluru với những vực thẳm "dễ hẹn kết liễu, khó hẹn ngày về", dù bao lời can ngăn ông vẫn quyết. Sáng hôm đó ông cạo sạch râu, bình tĩnh uống trà rồi bắt đầu leo núi "nhỡ không trở về được thì cũng chết với một phong thái ung dung". Và, trong tập "Linh sơn mây trắng", bước chân người viết gần như vòng quanh thế giới với những bài ký hấp dẫn, nhưng bài "Lang thang trên sa mạc Úc" thể hiện con người ông một cách đầy đặn nhất với một bản lĩnh kỳ lạ nhưng lại rất nhân văn.

Đối diện với các nền văn minh thế giới, ông rất điềm tĩnh: "Tôi không ngưỡng mộ về sự lớn của nó mà đứng trước nó để tự hào chính những ngôi chùa nhỏ, mái đình nhỏ của dân tộc mình. Những công trình văn minh sừng sững là bao nhiêu xương máu của người dân vô tội. Còn những mái chùa nhỏ của mình, thì lại ủ trong đó bao khát vọng của yêu thương và từ bi cứu thế" - ông nói.

Mặc dù, ông có thể dùng bao lời hoa mỹ để mô tả về những mảnh đất ông từng đến, những công trình văn minh đồ sộ mà ông từng đối diện, nhưng ông chỉ thể hiện nó bằng những ngôn ngữ dân dã nhất. Ông bảo rằng, ông đang dùng chính ngôn ngữ Việt Nam để tái hiện các nền văn minh để thấy rằng, con người có quyền tự hào với chính mình. Một cuộc đời dám đối mặt và giữ mình trong sạch, mình cũng có thể tự hào mình là một nền văn minh do chính mình xây dựng, bằng những đoạn đời chìm nổi. Và ông đã viết văn như thế, viết văn và tìm cái thế võ cho văn...

Ảo ảnh ngọn núi ở tuổi 66

Nhắc về đỉnh Bạch Mã, ngoài thiên nhiên hùng vĩ với các chóp núi hiên ngang nhưng lại hiền hòa nằm trong một khối biển trời thi vị, ông thường nhắc tới một huyền thoại của dân tộc đã ám ảnh ông. Huyền thoại còn lưu lại rằng, ngày xưa, khi địch ở phương Bắc tràn sang xâm chiếm nước ta với lực lượng mạnh khiến triều đình phong kiến Nam triều thất thủ. Một vị tướng tài ba kiên trung quyết không chịu đầu hàng, đã cưỡi ngựa trắng vào ngọn núi này để không rơi vào tay giặc, địch dụ hàng bao nhiêu cũng không làm nhụt khí tiết. Cuối cùng, chúng hèn hạ đốt cả khu rừng... Từ đó, sau những cơn mưa giông, người dân trong vùng thấy có một vị tướng đạo mạo cưỡi một con ngựa trắng đi từ chân núi lên đỉnh núi sừng sững với đất trời...

Và bây giờ, đã ở tuổi 66, mỗi lần đưa đệ tử của Võ đường Nghĩa Dũng lên núi Bạch Mã, ông Nguyễn Văn Dũng vẫn ngoái nhìn phía chân núi xem có bóng dáng của vị tướng kiêu hùng cưỡi ngựa trắng không...

Quay về đối diện với mình, gần đi hết một đời người, ông vẫn còn một dấu hỏi: Không biết người năm xưa mà ông "làm chồng" giờ đây như thế nào? Có lần nghe tin cô bị gãy chân, ông tính vào viện thăm nhưng rồi khi đến, cô không còn ở đấy nữa. Ông nghe loáng thoáng là cô hiện sống một cuộc sống phẳng lặng, bình thường. "Vậy là tôi mừng cho cô ấy, bởi bao năm qua, nếu cô ấy sống không hạnh phúc, chắc tôi sẽ ân hận...".

Và cách tốt nhất để cầu chúc cho người xưa, với ông, là mình giữ hạnh phúc của mình và nuôi dạy con cái chu đáo. "Tôi có 5 người con, chủ trương dạy con của tôi là các con phải có bằng đại học, còn làm nghề gì là tùy thuộc vào khả năng và sở thích. Trong hạnh phúc, chắc chắn người các con yêu phải là vợ và vợ phải là người yêu của các con".

Có thể bạn quan tâm