Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, Chủ tịch Ủy ban Quốc gia vì sự tiến bộ của Phụ nữ Việt Nam, nêu rõ, chủ đề này hoàn toàn phù hợp với những ưu tiên vì mục tiêu bình đẳng giới cần phải thúc đẩy trong bối cảnh hiện nay, thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa các Công ước quốc tế về quyền con người, quyền của phụ nữ và trẻ em gái, Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ, Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh.
Sau 25 năm thực hiện Cương lĩnh Hành động Bắc Kinh, đã có những bước tiến rất dài trên chặng đường thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em.
“Ủy ban Địa vị phụ nữ Liên hợp quốc đã thực hiện tốt được vai trò là Diễn đàn lớn nhất và có tầm quan trọng hàng đầu trong lĩnh vực bình đẳng giới, là nơi khởi đầu, xuất phát của các ý tưởng, chiến lược, định hướng cho các ưu tiên hành động của tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc”, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung phát biểu.
Cũng theo Bộ trưởng Đào Ngọc Dung, sự hội nhập và nâng cao quyền năng cho phụ nữ đã có tác động mang tính dây chuyền tích cực và quan trọng đối với từng quốc gia, khu vực và toàn cầu. Các báo cáo đều cho thấy, những thành công trong việc giảm đáng kể sự bất bình đẳng về thu nhập và phi thu nhập thông qua sự kết hợp các chính sách tiến bộ về kinh tế và xã hội.
“Tăng trưởng bao trùm và phát triển bền vững là xu hướng chung mà các quốc gia thành viên đã và đang hướng tới”.
Việt Nam cũng như nhiều quốc gia thành viên trong Liên hợp quốc khẳng định, bảo đảm an sinh xã hội là một trong những mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển quốc gia. Hệ thống pháp luật, chính sách về bảo đảm an sinh xã hội cho người dân nói chung, cho phụ nữ và trẻ em gái nói riêng gồm bốn trụ cột: Chính sách thúc đẩy việc làm bền vững và giảm nghèo cho phụ nữ và trẻ em gái; Chính sách bảo hiểm xã hội; Chính sách trợ giúp xã hội và các chính sách bảo đảm mức tối thiểu một số dịch vụ xã hội cơ bản.
Theo Bộ trưởng Lao động, Thương binh và Xã hội, Việt Nam đã đạt được một số thành tựu trong lĩnh vực này. Ttỷ lệ tham gia lực lượng lao động của lao động nữ Việt Nam là 71,2%, cao hơn đáng kể so với tỷ lệ tương ứng của khu vực Đông Á-Thái Bình Dương là 61,1% và thế giới là 49,6%.
“Trong gần 30 năm qua, Việt Nam là quốc gia có thành tựu giảm nghèo nổi bật trong khu vực và trên thế giới. Chính phủ luôn cam kết giành khoảng 2,6% tổng GDP hằng năm cho các chính sách, chương trình về trợ giúp xã hội cho các nhóm đối tượng yếu thế nhất trong xã hội, trong đó có phụ nữ và trẻ em gái…”, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho biết.
Tuy nhiên, để đạt được mục tiêu bình đẳng giới, Việt Nam, các quốc gia ASEAN và nhiều quốc gia thành viên khác hiện đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức, đặc biệt trong bối cảnh già hóa dân số, gia tăng khoảng cách giầu nghèo, biến đổi khí hậu diễn ra phức tạp.
“Mục tiêu của chúng tôi là tập trung vào việc hoàn thiện khung luật pháp chính sách về an sinh xã hội, ưu tiên vấn đề cải cách bảo hiểm xã hội, học tập suốt đời cho phụ nữ và trẻ em gái, việc làm đối với phụ nữ cao tuổi và phụ nữ di cư”, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung khẳng định.
Từ những thông tin và kinh nghiệm được chia sẻ trong các phiên họp tại CSW 63 vừa qua, Bộ trưởng Đào Ngọc Dung cho rằng, trước mắt cần chú trọng đến công tác tổng kết 25 năm thực hiện Tuyên bố và Cương lĩnh hành động Bắc Kinh, từ đó tìm ra những giải pháp và khuyến nghị phù hợp ở cấp quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Sau đó, cần đầu tư nguồn lực nhiều hơn nữa cho những hoạt động phối hợp trong những lĩnh vực của phát triển bền vững như an sinh xã hội, giáo dục, giảm nghèo, trao quyền kinh tế, bảo vệ môi trường và các hành động ứng phó với vấn đề khí hậu.
Bộ trưởng Đào Ngọc Dung nhấn mạnh, các quốc gia thành viên hãy cam kết dành một tỷ lệ GDP thích đáng vào ngành dịch vụ chăm sóc, đặc biệt trong các dịch vụ xã hội và chăm sóc trẻ em. Nghiên cứu cho thấy, chỉ cần đầu tư 2% GDP vào dịch vụ này, số lượng việc làm sẽ tăng khoảng 2,4 - 6,1%. Từ đó, phần lớn các công việc tạo ra có thể do phụ nữ đảm nhiệm, làm giảm khoảng cách giới trong việc làm, và các chính sách này sẽ thúc đẩy việc làm nói chung và tăng trưởng kinh tế.