Về chủ trương "Đánh chắc tiến chắc" trong Chiến dịch Điện Biên Phủ (*)

Tôi là thành viên đoàn cán bộ đầu tiên của Đảng được cử sang học tập tại Trường Đảng Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc - Học viện Mác - Lê-nin Bắc Kinh - năm 1949-1950. Do vậy mà tôi biết tiếng Trung Quốc. Đông Xuân 1953-1954, là Trưởng đoàn cán bộ phiên dịch Bộ Tổng Tư lệnh Quân đội Nhân dân Việt Nam, tôi được cử đi mặt trận làm trợ lý cho Bộ Chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ trong quan hệ với Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc. Trưởng đoàn là cố vấn Vi Quốc Thanh, Phó đoàn kiêm Tham mưu trưởng là cố vấn Mai Gia Sinh, Phó đoàn trưởng về chính trị là cố vấn Đặng Dật Phàm.

Quân Pháp nhảy dù xuống Điện Biên Phủ ngày 20-11-1953 thì ngày 26-11, đoàn cán bộ đi trước của Tiền phương Bộ Tổng Tư lệnh do Thiếu tướng, Phó Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái dẫn đầu đã lên đường đi Tây Bắc. Cùng đi có cố vấn Mai Gia Sinh, một số cán bộ và cố vấn tham mưu, chính trị, cung cấp. Tôi cũng được phân công đi trước trong đoàn này.

Ngày 30-11-1953, Đoàn đến Nà Sản, chủ trương dừng lại một ngày để nghiên cứu tập đoàn cứ điểm mà địch vừa rút bỏ vào thượng tuần tháng 8-1953. Ngày  6-12-1953, Đoàn đến Sở chỉ huy đầu tiên của Chiến dịch Điện Biên Phủ ở hang Thẩm Púa.

Đoàn dành ba ngày để nắm tình hình địch và địa hình Điện Biên Phủ, chỉ đạo Đại đoàn 316 đánh địch ở Lai Châu đang rút chạy, lệnh cho Đại đoàn 308 nhanh chóng bao vây Điện Biên Phủ, chỉ đạo bộ đội công binh gấp rút mở rộng đường Tuần Giáo đi Mường Thanh để xe kéo pháo và xe vận tải có thể vào sát chiến trường.

Lúc này, căn cứ vào báo cáo và bản vẽ của các mũi trinh sát tiền phương và các đơn vị thuộc trung đoàn 148 đã bám sát và đánh địch từ đầu, kết hợp với tin trinh sát kỹ thuật, ta đã nắm được tương đối cụ thể địa hình và các vị trí đóng quân của địch. Hơn nửa tháng sau khi nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, binh lực chúng đã lên đến chín tiểu đoàn. Chúng đã san bằng thị trấn Mường Thanh để xây dựng Sở chỉ huy và trận địa pháo. Sân bay Mường Thanh đã được sửa chữa và sử dụng. Địch đang tập trung xây dựng các cụm cứ điểm Him Lam, đồi A1 và các ngọn đồi khác ở phía đông, ở nam bắc sân bay. Ở phía tây đã có cứ điểm Cang Na và một vài nơi đang đào công sự. Sau đó, địch đóng thêm Bản Kéo và một vị trí tiền tiêu ở đồi Độc Lập. Trinh sát phát hiện ở Hồng Cúm cũng đã có địch và máy bay trực thăng lên xuống.

Tuy nhiên, phần lớn công sự còn làm theo kiểu dã chiến, phòng ngự địch ở phía tây còn nhiều sơ hở. Anh em báo cáo: Một chiến sĩ trinh sát có lần vào gần sân bay lấy dù tiếp tế và phục bắt tù binh, đến sáng không ra được, đã giấu mình trong đống dù nằm ăn đồ hộp và ngủ cả ngày mà địch không hề hay biết!

Ngày 9-12-1953, căn cứ vào tình hình địch và địa hình, Phó Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái, cố vấn Mai Gia Sinh cùng một số cán bộ và cố vấn tham mưu bàn cách đánh. Tôi phiên dịch cho cả hai bên. Có hai phương án được đề ra:

- Một là: Dùng toàn bộ lực lượng bộ binh, dưới sự yểm trợ của pháo binh và cao xạ, từ nhiều hướng cùng một lúc tiến công vào tập đoàn cứ điểm, hướng chính thọc sâu vào Sở chỉ huy, giống như một lưỡi gươm đâm thẳng vào tim, tạo nên sự rối loạn ở trung tâm phòng ngự địch ngay từ đầu, rồi từ trong đánh ra, từ ngoài đánh vào, tiêu diệt địch trong thời gian tương đối ngắn.

- Hai là: Bao vây địch dài ngày rồi đánh dần từng bước một, lần lượt tiến công từng trung tâm đề kháng bằng nhiều trận công kiên kế tiếp, tiến tới tiêu diệt hoàn toàn quân địch.

Cố vấn Mai Gia Sinh gọi cách đánh thứ nhất là: "Chiến thuật moi tim" (Oa tâm tạng chiến thuật), cách đánh thứ hai là: "chiến thuật bóc vỏ" (bóc bì chiến thuật). Ông phân tích: "Năm ngoái đánh Nà Sản, ta dùng chiến thuật bóc vỏ, lần lượt đánh từng vị trí, lại không có trọng pháo tầm xa để chế áp pháo binh và Sở chỉ huy địch, nên chúng tập trung được toàn bộ hỏa lực của tập đoàn cứ điểm chi viện cho từng vị trí bị tiến công. Ta thương vong nhiều mà không dứt điểm được. Mà có dứt điểm thì cũng không giữ được, như vị trí Pú Hồng. Ở Điện Biên Phủ hiện nay, địch còn trong trạng thái lâm thời phòng ngự, công sự chưa vững chắc, lại có nhiều sơ hở ở phía tây. Ta nên tranh thủ đánh sớm, đánh nhanh bằng sức mạnh mới của bộ pháo hiệp đồng, dùng chiến thuật moi tim để tiêu diệt địch. Nếu không đánh sớm, địch tăng thêm binh lực, củng cố công sự và hoàn chỉnh thế bố phòng thì e sẽ gặp khó khăn".

Thiếu tướng Hoàng Văn Thái đặt vấn đề: "Làm thế nào để đưa pháo vào trận địa khi ta chủ trương đánh sớm, đánh nhanh mà chưa kịp làm đường cho xe kéo pháo? Làm thế nào để hạn chế tác dụng của máy bay, pháo binh, giảm bớt thương vong khi ta đánh liên tục cả ban ngày?".

Mai cố vấn giải đáp: "Sau khi hoàn thành mở rộng đường Tuần Giáo - Mường Thanh, ta chỉ cần đốn cây, phát cỏ rồi dùng sức người kéo pháo vào trận địa. Việc này chúng tôi đã từng làm, tuy có khó khăn vất vả, nhưng sẽ tạo được bất ngờ lớn. Về việc đối phó với máy bay và pháo địch, ta có khả năng làm được: trận đánh sẽ bắt đầu bằng một trận pháo cấp tập dữ dội, làm cho pháo địch và máy bay thường trực ở sân bay bị tổn thất nặng ngay từ đầu. Tiếp đó là các mũi đột kích của bộ binh thọc sâu vào chia cắt đội hình, mũi chủ yếu đánh vào Sở chỉ huy theo kiểu "nở hoa trong lòng địch" (tâm trung khai hoa). Ta làm được như vậy thì các trận đánh ban ngày sẽ diễn ra trong trạng thái địch ta xen kẽ. Máy bay và pháo địch không dễ dàng bắn trúng đội hình chiến đấu của ta mà không gây thương vong cho quân của chúng. Tôi được thông báo là các tiểu đoàn pháo cao xạ của Liên Xô viện trợ và đưa qua Trung Quốc huấn luyện đã tiến bộ khá nhanh. Trước khi về nước, cán bộ và chiến sĩ đã nắm vững chiến thuật và kỹ thuật. Đây là một lực lượng đáng tin cậy để hạn chế hoạt động của không quân địch".

Sau khi cân nhắc thuận lợi và khó khăn về cách đánh cũng như về khả năng bảo đảm hậu cần, hai ông nhất trí chọn phương án đánh nhanh thắng nhanh để chuẩn bị báo cáo với Đại tướng Tổng Tư lệnh và Trưởng Đoàn cố vấn.

Ngày 1-1-1954, Thường vụ Trung ương Đảng chỉ định cơ quan lãnh đạo và chỉ huy Chiến dịch Điện Biên Phủ. Đại tướng Tổng Tư lệnh Võ Nguyên Giáp được giao nhiệm vụ Chỉ huy trưởng kiêm Bí thư Đảng ủy chiến dịch. Thiếu tướng Phó Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái là Tham mưu trưởng; Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lê Liêm là Chủ nhiệm Chính trị; Phó Chủ nhiệm Tổng cục Cung cấp Đặng Kim Giang là Chủ nhiệm Cung cấp chiến dịch. Cả ba ông đều được chỉ định là ủy viên Đảng ủy Chiến dịch Điện Biên Phủ.

Ngày 5-1-1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Trưởng Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc Vi Quốc Thanh lên đường đi Tây Bắc. Cùng đi có Cục trưởng Cục Tác chiến Trần Văn Quang, Cục trưởng và cố vấn một số cục khác.

Sáng 12-1-1954, Đoàn đến Tuần Giáo. Thiếu tướng Hoàng Văn Thái từ Sở chỉ huy ra đón, tranh thủ báo cáo tình hình và phương án đánh nhanh thắng nhanh đã bàn với Chủ nhiệm Chính trị Lê Liêm và Chủ nhiệm Cung cấp Đặng Kim Giang. Thấy phương án này trái hẳn với dự kiến của Tổng Quân ủy trình lên Bộ Chính trị ngày 6-12-1953, Đại tướng vào ngay Sở chỉ huy Thẩm Púa, triệu tập hội nghị Đảng ủy. Ngoài các đảng ủy viên, còn có Chánh văn phòng Đảng ủy Nguyễn Văn Hiếu được phép dự họp để ghi biên bản. Ông Hiếu năm nay 81 tuổi, đang ngồi cạnh tôi trong cuộc hội thảo này, kể lại: "Trong cuộc họp, tất cả các Đảng ủy viên đều nhất trí chọn phương châm "đánh nhanh thắng nhanh". Mọi người cho rằng, quân ta đang sung sức, quyết tâm chiến đấu rất cao, lại có trọng pháo và cao xạ lần đầu xuất trận, ta có thể tạo bất ngờ và đánh thắng. Nếu không đánh sớm, để tập đoàn cứ điểm được tăng cường quá mạnh, ta sẽ bỏ lỡ cơ hội đánh tiêu diệt lớn trong Đông Xuân này. Đánh dài ngày sẽ rất khó giải quyết vấn đề tiếp tế: Tại khu vực Điện Biên Phủ, mỗi ngày tiêu thụ gần 50 tấn gạo. Nếu tính từ Sơn La trở lên, bình quân phải có 90 tấn gạo ngày cho cả bộ đội và dân công. Địch sẽ tăng cường đánh phá đường tiếp tế vận chuyển của ta. Nếu chiến dịch kéo dài thì không thể có đủ gạo ăn mà đánh. Về tư tưởng, bộ đội vốn thích về đánh ở đồng bằng, nay đã thông suốt, hăng hái quyết tâm; nhưng nếu ở chiến trường rừng núi quá lâu, ăn uống kham khổ, bệnh tất phát sinh thì cả thể lực cũng như ý chí đều có thể dần dần giảm sút...".

Đại tướng không nhất trí với những ý kiến đó, sang bàn với Trưởng đoàn cố vấn Vi Quốc Thanh, hy vọng sẽ có sự đồng tình. Đại tướng nói: "Trước khi lên đây, tôi và đồng chí đã dự kiến Chiến dịch Điện Biên Phủ sẽ được thực hành bằng cách đánh dần từng bước khoảng 45 ngày, nay các đồng chí Thái và Mai lên trước lại chủ trương đánh sớm, đánh nhanh. Tôi thấy phương án này không ổn. Đồng chí suy nghĩ gì về phương án đó?". Vi đoàn trưởng nói: "Tôi đã gặp đồng chí Mai Gia Sinh và các cố vấn cùng đi chuẩn bị chiến trường với cán bộ Việt Nam, trong đó có một ngày dừng lại ở Nà Sản để nghiên cứu kỹ tập đoàn cứ điểm mà quân Pháp vừa rút bỏ. Qua bài học Nà Sản, tất cả đều nhất trí là ở Điện Biên Phủ lần này, ta nên tranh thủ đánh sớm đánh nhanh và có nhiều khả năng đánh thắng". Chúng ta đều vừa mới đến chiến trường, hai đồng chí Thái và Mai thì đã lên đây từ hơn một tháng. Đảng ủy và cán bộ đều nhất trí, quyết tâm, ta chưa đủ căn cứ để phản đối phương án của các đồng chí ấy. Cũng cần cân nhắc là nếu không tranh thủ đánh sớm khi địch còn đứng chân chưa vững, để nay mai chúng tăng quân và củng cố công sự thì không đánh được, ta sẽ bỏ mất thời cơ".

Tuy vẫn không tin vào phương án đánh nhanh thắng nhanh, nhưng Đại tướng tự thấy mình chưa có đủ cơ sở thực tế để bác bỏ phương án đã được đa số trong Đảng ủy và tất cả các cố vấn đồng tình. Cũng không còn thời gian xin ý kiến của Bác và Bộ Chính trị, vì không thể trao đổi vấn đề tuyệt mật này qua điện đài; viết thư cho cán bộ cầm về rồi cầm thư trả lời lên thì không thể kịp. Đại tướng đồng ý triệu tập hội nghị cán bộ vào ngày 14-1, để kịp triển khai công tác chuẩn bị. Đại tướng chỉ thị cho Cục Quân báo theo dõi sát tình hình địch bằng cả trinh sát mặt đất và trinh sát kỹ thuật, chú ý hướng tây và hướng bắc, báo cáo với Đại tướng mỗi ngày ba lần, không kể khi có tin đặc biệt. Đại tướng trao đổi riêng những suy nghĩ của mình với Chánh văn phòng Nguyễn Văn Hiếu, cho rằng đánh như vậy là mạo hiểm, dặn là biết vậy để giúp theo dõi, không được nói với bất cứ ai.

Ngày 14-1-1954, phương án đánh nhanh thắng nhanh và nhiệm vụ của các đơn vị, các binh chủng được phổ biến trên một sa bàn lớn ở hang Thẩm Púa. Thời gian tác chiến dự kiến là 3 đêm 2 ngày, ngày nổ súng là 20-1-1954. Không khí hội nghị phấn khởi và tin tưởng, Chỉ huy các Đại đoàn đều biểu thị quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ. Không một ai có ý kiến khác.

Khi kết luận hội nghị, để chuẩn bị tư tưởng phần nào cho cán bộ, Đại tướng nói: "Hiện nay tình hình địch chưa có triệu chứng thay đổi lớn. Chúng ta cần hết sức chú ý theo dõi ý đồ và hành động của chúng để một khi tình hình thay đổi thì kịp thời xử trí".

Sau Hội nghị, theo báo cáo của Cục Quân báo, binh lực địch ở Điện Biên Phủ đã từ 9 tiểu đoàn tăng lên 11 tiểu đoàn. Hàng ngày máy bay địch, kể cả máy bay C119 do phi công Mỹ lái, tiếp tục vận chuyển và thả dù hàng trăm tấn lương thực, vũ khí, đạn dược, dây kẽm gai và cọc sắt xuống sân bay Mường Thanh và Hồng Cúm. Đồi Độc Lập lúc đầu chỉ là một cứ điểm tiền tiêu, nay đã trở thành một trung tâm đề kháng vững chắc. Cụm cứ điểm Him Lam đã được tăng  cường.

Đêm 17 rạng ngày 18-1-1954, Sở chỉ huy chiến dịch từ cây số 15 chuyển vào ngang cây số 62, trong một khu rừng thuộc bản Nà Tấu. Các thành viên Bộ Chỉ huy chiến dịch chia nhau đi kiểm tra đôn đốc các đơn vị: Việc làm đường kéo pháo từ cửa rừng Nà Nham qua núi Pha Song cao 1.150 m, xuống Bản Tố tới Bản Nghịu (tây bắc Điện Biên Phủ) dài 15 km, rộng 3 m, đã được hoàn thành sớm hơn dự kiến. Nhưng việc kéo pháo phải kéo dài. Phải dùng hàng trăm người kết hợp với tời kéo dần từng khẩu nặng hàng tấn, qua những đoạn có dốc cao vực thẳm, trung bình mỗi giờ chỉ nhích được từ 150 đến 200 m. Đến ngày 19-1, pháo vẫn chưa vào tới vị trí.

Ngày nổ  súng được hoãn đến 25-1-1954.

Ngày 20-1, Cục Quân báo báo cáo tiếp: Sau khi củng cố hệ thống phòng ngự trên các ngọn đồi phía đông, địch đóng thêm một số vị trí ở phía tây bắc Mường Thanh. Có khả năng hình thành một trung tâm đề kháng mạnh ở đây. Địch ráo riết củng cố công sự và hệ thống vật cản. Chung quanh các cứ điểm đều có bãi mìn dày đặc, kết hợp với nhiều hàng rào kẽm gai rộng từ 50 đến 70 m, có nơi rộng đến gần 200 m. Đặc biệt, trinh sát phát hiện có một loại súng trọng liên 4 nòng đặt gần sở chỉ huy của Đờ Cát, có thể quay bắn về nhiều hướng.

Sáng 23-1, sau khi kiểm tra tình hình chuẩn bị chiến đấu của Đại đoàn 312 qua điện thoại, nghe Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn báo cáo địch đã tăng cường công sự, có thêm loại dây thép gai bùng nhùng, đơn vị phải đột phá liên tục 3 phòng tuyến của địch mới vào được trung tâm,  tuy có khó khăn nhưng quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ, Đại tướng cho gọi Cục phó Cục Quân báo Cao Pha sang và chỉ thị: "Địch đã tăng cường lực lượng, công sự và vật cản, mà ta thì chưa hiểu rõ cách bố trí phòng ngự bên trong của chúng ở nam sân bay và Mường Thanh. Sắp tới, Đại đoàn 312 từ phía bắc sẽ phải đánh một mạch từ đồi Độc Lập, vị trí 105, Căng Nă, qua sân bay vào tới trung tâm, tôi lo là anh em sẽ thương vong nhiều và khó hoàn thành nhiệm vụ. Cậu phải xuống cùng đi theo mũi của 312. Đi đến đâu, đánh đến chỗ nào, cậu nắm ngay tình hình địch, chú ý khai thác tù binh và báo cáo về ngay".

Chiều 23-1, Cục phó Cục bảo vệ được cử làm phái viên theo dõi việc kéo pháo vào trận địa phía tây bắc sân bay, đề nghị gặp Đại tướng qua điện thoại. Cục phó Phạm Kiệt nói: "Pháo của ta đều bố trí trên trận địa dã chiến, địa hình rất trống trải, nếu bị phản pháo hoặc không quân đánh phá thì khó tránh khỏi tổn thất. Một số pháo vẫn chưa vào vị trí. Đề nghị anh cân nhắc". Sau này, Đại tướng cho biết: Sự phát triển của tình hình địch và lời của Đại đoàn trưởng Lê Trọng Tấn đã làm cho Đại tướng suy nghĩ rất nhiều... Qua ý kiến của Cục phó Phạm Kiệt, người duy nhất phát hiện khó khăn, Đại tướng càng thấy là không thể mạo hiểm đánh theo kế hoạch đã đề ra.

Ngày 24-1 một chiến sĩ ta bị địch bắt. Qua tin trinh sát kỹ thuật, biết chúng đã nắm được thời gian ta nổ súng là 17 giờ ngày 25-1-1954, Đại tướng quyết định hoãn giờ nổ súng thêm 24 tiếng.

Tảng sáng 26-1, liên lạc xuống gọi tôi lên gặp Đại tướng gấp. Ông đang ngồi nghiên cứu tình hình qua tấm bản đồ trải trên bàn nứa, đầu quấn đầy lá ngải cứu. Tôi ngạc nhiên hỏi: "Anh nhức đầu hay sao mà đắp ngải cứu nhiều như thế?". Đại tướng thân mật đáp: 11 ngày qua mình suy nghĩ rất nhiều và suốt đêm qua không ngủ được. Chiều nay trận đánh sẽ bắt đầu, nhưng những yếu tố thắng lợi thì ta chưa hoàn toàn nắm chắc. Cậu sang báo đồng chí Vi là tôi có việc cần bàn gấp sáng nay.

Tôi dịch cho Đại tướng trong cuộc trao đổi ý kiến với Đoàn trưởng Vi Quốc Thanh. Gặp Đại tướng, Vi đoàn trưởng ngạc nhiên nhìn nắm ngải cứu trên đầu, ân cần hỏi thăm tình hình sức khỏe rồi nói:

- Trận đánh sắp bắt đầu, đề nghị Võ Tổng cho biết tình hình mới nhất ra sao?

- Đó cũng là vấn đề tôi muốn trao đổi với đồng chí. Qua 11 ngày đêm theo dõi sát tình hình, tôi thấy địch không còn trong trạng thái lâm thời phòng ngự, mà đã trở thành một tập đoàn cứ điểm kiên cố. Vì vậy không thể đánh theo kế hoạch đã định. Có ba khó khăn lớn mà bộ đội Việt Nam không thể vượt qua:

Một là:  Các đơn vị chủ lực của chúng tôi cho đến nay chỉ mới có khả năng cao nhất là tiêu diệt 1 tiểu đoàn địch tăng cường trong công sự vững chắc. Chưa có khả năng, trong một thời gian ngắn, tiêu diệt cả chục tiểu đoàn địch phòng ngự trong tập đoàn cứ điểm. Ở Nà Sản cuối năm 1952, một trung đoàn đánh một tiểu đoàn địch trong công sự dã chiến mà chưa thành công. Nay địch có 49 cứ điểm, binh lực hỏa lực mạnh hơn, có công sự vững chắc và hệ thống vật cản dày đặc, lại càng không thắng được, mặc dù một năm qua bộ đội có nhiều tiến bộ.

Hai là: Trong trận này ta có thêm lựu pháo và pháo cao xạ, đã được các đồng chí Trung Quốc giúp huấn luyện, có kết quả tốt, nhưng bộ pháo hiệp đồng quy mô lớn mới là lần đầu, lại chưa qua diễn tập. Cán bộ còn lúng túng trong việc chỉ huy. Có Trung đoàn trưởng đã đề nghị trả bớt hỏa lực trợ chiến về cho Bộ!

Ba là: Như đồng chí đã biết, không quân Pháp mạnh hơn không quân  Tưởng Giới Thạch khi các đồng chí tiến hành chiến tranh giải phóng. Nay lại có không quân Mỹ tăng cường. Bộ đội chúng tôi lâu nay mới quen tác chiến ban đêm ở những địa hình dễ ẩn náu để hạn chế chỗ mạnh của địch về không quân và pháo binh. Nay phải chiến đấu liên tục trong 3 đêm 2 ngày với kẻ địch có ưu thế về máy bay, pháo và xe tăng trên địa hình trống trải, nhất là trên cánh đồng Mường Thanh khá rộng, thì rất khó tránh thương vong, khó hoàn thành nhiệm vụ.

Tất cả những khó khăn này ta đều chưa bàn kỹ cách giải quyết, chỉ mới dựa vào khả năng cấp tập hỏa lực để tiêu diệt pháo và máy bay địch trong đêm đánh đầu tiên. Ngày 12-1, khi thấy đa số tán thành phương châm đánh nhanh, thắng nhanh, tôi không tán thành và đã nói với đồng chí. Nhưng đồng chí cũng như tôi là những người vừa mới đến chiến trường, chỉ mới nghe báo cáo, chưa nắm chắc được tình hình, nên chưa tiện bác bỏ ý kiến của các đồng chí đã lên trước hơn một tháng. Đến nay, tình hình đã khác. Tôi đã cử cán bộ trực tiếp đi kiểm tra các trận địa pháo, phần lớn đều nằm ở nơi trống trải. Nếu trong đêm đầu ta không diệt được pháo địch, ban ngày địch dùng không quân oanh tạc, dùng pháo binh bắn phá, dùng bộ binh và xe tăng phản kích thì không có đường và xe kéo, pháo ta sẽ rút đi đâu?

Nói tóm lại: Theo tôi, nếu đánh theo kế hoạch cũ là thất bại. Trung ương Đảng chúng tôi từng nhắc nhở: "Chiến trường ta hẹp, người của ta không nhiều, cho nên chỉ được thắng không được bại, vì bại thì hết vốn". Qua 8 năm kháng chiến, chúng tôi mới xây dựng được 6 Đại đoàn bộ binh chủ lực, mà phần lớn đều có mặt trong chiến dịch này...

Vi đoàn trưởng suy nghĩ một lúc rồi hỏi:

- Vậy theo ý Võ Tổng thì nên xử trí như thế nào?

- Ý định của tôi là ra lệnh hoãn cuộc tiến công chiều hôm nay; kéo pháo ra, thu quân về vị trí tập kết. Chuẩn bị lại theo phương châm đánh chắc tiến chắc. Thời gian chiến dịch kéo dài, khó khăn sẽ không ít, nhất là về mặt tiếp tế. Nhưng tôi tin tưởng vững chắc rằng, với sự cố gắng của cán bộ và chiến sĩ, sự chi viện của toàn Đảng, toàn dân ở hậu phương, với sự giúp đỡ nhiệt tình của các đồng chí cố vấn, chiến dịch này nhất định thắng!

Sau lát giây suy nghĩ, Vi đoàn trưởng nói:

- Tôi đồng ý với Võ Tổng. Tôi sẽ đả thông tư tưởng cho các đồng chí trong đoàn cố vấn. Võ Tổng đả thông tư tưởng cho cán bộ Việt Nam.

Thời gian gấp. Tôi cần họp ngay Đảng ủy để quyết định. Tôi đã có dự kiến cho Đại đoàn 308 tiến về hướng Luông Phabang, cố ý bộc lộ lực lượng chừng nào để kéo không quân địch về hướng đó, không để chúng gây khó khăn khi ta lui quân và kéo pháo ra.

Cuộc trao đổi giữa hai người diễn ra hơn nửa tiếng.

Hơn nửa giờ sau, các ủy viên Đảng ủy mặt trận đã có mặt đủ ở Sở chỉ huy, Chánh văn phòng Nguyễn Văn Hiếu ghi biên bản. Đại tướng trình bày những suy nghĩ từ lâu về cách đánh tập đoàn cứ điểm, về 3 khó khăn chưa thể vượt qua như đã nói với cố vấn Vi Quốc Thanh, rồi tóm lại: Ta vẫn giữ vững quyết tâm tiêu diệt tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ, nhưng phải thay đổi cách đánh.

Mọi người im lặng một lúc.

Lát sau, Chủ nhiệm chính trị phát biểu: - Ta đã động viên sâu rộng bộ đội về nhiệm vụ rồi, cán bộ, chiến sĩ đều rất tin tưởng, quyết tâm chiến đấu rất cao. Các đơn vị, các binh chủng đều trong tư thế sẵn sàng nổ súng. Nay phải lui quân và kéo pháo ra, khác nào như dội nước lạnh vào đầu, thì giải thích làm sao? Sau này động viên lại để có quyết tâm và tin tưởng như bây giờ, không phải dễ.

Chủ nhiệm cung cấp nói: Tôi thấy cứ nên giữ vững quyết tâm. Tới bây giờ, gạo, đạn chuẩn bị đã khó khăn. Nếu không đánh ngay, sau này lại càng không đánh được. Gạo không đưa lên được, bộ đội đói thì sức đâu mà đánh? Bài học Khâu Vác trong chiến dịch Tây Bắc(**) nhắc chúng ta: Đánh cách nào thì cũng phải tính đến khả năng bảo đảm tiếp tế. Nhiều khi gạo là Tư lệnh, là yếu tố quyết định!

Đại tướng nói: Tinh thần bộ đội là rất quan trọng, nhưng quyết tâm phải có cơ sở. Hậu cần là điều kiện tiên quyết, nhưng để giành thắng lợi, quyết định cuối cùng phải là có cách đánh đúng.

Tham mưu Trưởng nói: Anh Văn cân nhắc cũng phải... Nhưng lần này, ta có ưu thế binh lực, hỏa lực, có lựu pháo, pháo cao xạ kiềm chế pháo binh và không quân địch, có kinh nghiệm của bạn, bộ đội đã qua huấn luyện, tôi thấy nếu đánh, vẫn có thể thắng.

Cuộc họp chưa kết luận được, phải tạm dừng một lát.

Khi hội nghị tiếp tục, Đại tướng nói: "Tình hình khẩn trương, cần sớm có quyết định. Vô luận tình hình nào, chúng ta cũng phải nắm vững nguyên tắc cao nhất là "đánh chắc thắng". Trước khi tôi lên đường, Bác giao nhiệm vụ: "Trận này rất quan trọng, phải đánh cho thắng. Chắc thắng mới đánh, không chắc thắng không đánh". Với tinh thần trách nhiệm trước Bác và Bộ Chính trị, trước sinh mệnh của hàng vạn cán bộ, chiến sĩ, tôi đề nghị các đồng chí trả lời câu hỏi:

"Nếu đánh có chắc thắng trăm phần trăm không?"

Chủ nhiệm Chính trị nói: Anh Văn nêu câu hỏi thật khó trả lời: Ai dám bảo đảm là sẽ chắc thắng trăm phần trăm?

Chủ nhiệm cung cấp nói tiếp: Làm sao dám bảo đảm như vậy? Tôi nghĩ, với trận này ta phải bảo đảm chắc thắng trăm phần trăm.

Bấy giờ, Tham mưu Trưởng mới nói:

Nếu yêu cầu phải chắc thắng trăm phần trăm thì khó...

Cuối cùng Đảng ủy đi đến nhất trí là trận này có thể gặp nhiều khó khăn mà ta chưa có biện pháp cụ thể để khắc phục.

Đại tướng kết luận:

"Để bảo đảm nguyên tắc cao nhất là: "Đánh chắc thắng", cần chuyển phương châm chiến dịch từ "Đánh nhanh, thắng nhanh" sang "Đánh chắc tiến chắc". Nay quyết định hoãn cuộc tiến công. Ra lệnh cho bộ đội trên toàn mặt trận lui về vị trí tập kết và kéo pháo ra. Công tác chính trị bảo đảm chấp hành triệt để mệnh lệnh lui quân như mệnh lệnh chiến đấu. Hậu cần chuyển sang chuẩn bị theo phương châm mới".

Lúc đó là 11 giờ trưa ngày 26-1-1954.

Sau đó Đại tướng nói với Thiếu tướng Hoàng Văn Thái: "Tôi sẽ ra lệnh cho pháo binh và giao nhiệm vụ mới cho 308. Anh ra lệnh cho các đơn vị còn lại.

Sau khi gọi điện thoại cho pháo binh, ra lệnh kéo pháo ra từ ngay chiều hôm đó, đến 14 giờ 30, Đại tướng mới liên lạc được qua điện thoại với Đại đoàn trưởng Đại đoàn 308 Vương Thừa Vũ:

- Chú ý nhận lệnh: Tình hình thay đổi. Đại đoàn đồng chí có nhiệm vụ tiến quân ngay chiều nay về hướng Luông Phabang. Gặp địch dọc đường, tùy điều kiện cụ thể mà tiêu diệt. Giữ vững lực lượng, có lệnh trở về ngay. Giữ liên lạc vô tuyến điện. Khi được hỏi mới trả lời.

- Rõ.

- Triệt để chấp hành mệnh lệnh!

- Xin chỉ thị về sử dụng binh lực?

- Toàn quyền quyết định, từ 1 tiểu đoàn đến toàn Đại đoàn. Hậu cần tự giải quyết. Đúng 16 giờ 26-1 xuất phát.

- Xin triệt để chấp hành mệnh lệnh!

Ngay chiều hôm đó, Đại tướng đã viết thư hỏa tốc cho cán bộ cầm về báo cáo với Bác và Ban Thường vụ Trung ương.

Đêm 30 rạng 31-1-1954, Sở chỉ huy chiến dịch chuyển vào khu vực Mường Phăng, trước Tết Nguyên đán 3 ngày.

Sáng mồng 1 Tết (3-2-1954) Đại tướng sang lán Đoàn trưởng Vi Quốc Thanh chúc Tết đoàn cố vấn và báo tin thắng lợi trên các chiến trường. Đây là lần thứ tư, vì sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Việt Nam, các cố vấn Trung Quốc phải tiếp tục ăn một cái Tết xa Tổ quốc, xa gia đình, và lần này, ở ngay mặt trận: ...Vi đoàn trưởng vui vẻ chúc mừng năm mới và những thắng lợi mới của quân và dân ta. Ông cho biết: Sau khi được phân tích đầy đủ về chỗ mạnh, chỗ yếu của địch và ta, các cố vấn ở cơ quan và đơn vị đều nhất trí với chủ trương thay đổi phương châm chiến dịch. Mọi người đều bày tỏ quyết tâm đồng cam cộng khổ, đem hết trí tuệ và năng lực giúp bộ đội Việt Nam giành toàn thắng. Ông đã đề nghị Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tham mưu Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc gửi gấp những tài liệu tổng kết kinh nghiệm chiến đấu mới nhất ở Triều Tiên, nhất là kinh nghiệm xây dựng trận địa và chiến đấu đường hầm, kể cả cuốn truyện "Thượng cam lĩnh" để bộ đội Việt Nam tham khảo.

Trong quá trình chuẩn bị chiến dịch theo phương châm mới, Đoàn trưởng Vi Quốc Thanh đã trực tiếp giới thiệu cách xây dựng trận địa tiến công và bao vây cho cán bộ ta, trên cơ sở kinh nghiệm của Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc trong chiến dịch Hoài Hải và của Quân chí nguyện Trung Quốc ở Triều Tiên. Tôi phiên dịch cho đoàn trưởng Vi trong các buổi giới thiệu đó. Phó đoàn trưởng Mai Gia Sinh đã hướng dẫn công binh ta xây dựng trận địa mẫu để cán bộ các đơn vị tham quan học tập. Cố vấn các đơn vị đã hướng dẫn cụ thể cho cán bộ ta ở thực địa, nên việc làm đường và xây dựng trận địa cho bộ binh, pháo binh, cao xạ được tiến hành thuận lợi.

Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ở các cơ quan tham mưu, chính trị, cung cấp, cũng như ở các binh chủng, các đơn vị chiến đấu, trước cũng như sau khi thay đổi phương châm chiến dịch, các cố vấn quân sự Trung Quốc đã giúp ta một cách chân thành, tích cực, tận tình, không nề hà hiểm nguy gian khổ.

Mao Chủ tịch từng chỉ thị cho lãnh đạo Đoàn cố vấn: "Thực dân Pháp là kẻ thù của nhân dân Việt Nam, cũng là kẻ thù của nhân dân Trung Quốc, là kẻ thù chung của nhân dân hai nước. Trung Quốc giúp Việt Nam đánh bại thực dân Pháp xâm  lược, khôi phục hòa bình, đó là sự giúp đỡ của Trung Quốc đối với Việt Nam. Ngược lại, Việt Nam đánh bại và đuổi thực dân Pháp xâm lược ra khỏi bờ cõi Việt Nam, cũng tức là vùng biên cương phía nam của Trung Quốc thoát khỏi tình trạng bị thực dân xâm lược Pháp uy hiếp, đó là sự giúp đỡ của Việt Nam đối với Trung Quốc". Thấm nhuần lời dạy đầy tinh thần quốc tế cao cả đó của Mao Chủ tịch, các cố vấn Trung Quốc đã coi sự nghiệp cách mạng Việt Nam như sự nghiệp của chính mình, để lại ấn tượng tốt đẹp trong lòng cán bộ và chiến sĩ Việt Nam.

Nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng những ấn tượng tốt đẹp đó không hề phai nhạt trong ký ức cán bộ chiến sĩ ta thời ấy. Tôi là người chứng kiến mối quan hệ giữa các vị lãnh đạo quân dội ta và lãnh đạo Đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc từ khi Đoàn sang Việt Nam tháng 8-1950 cho đến khi Đoàn hoàn thành nhiệm vụ về nước đầu năm 1956, ấn tượng đó trong tôi lại càng sâu sắc.

Tôi nhớ mãi lời dặn dò của Bác Hồ ngày 12 tháng 9 năm 1950 tại Sở chỉ huy tiền phương của Bộ Tổng Tư lệnh trong chiến dịch Biên giới:

"Chú đi với Đoàn cố vấn... Sau mấy chục năm chiến tranh, nay Cách mạng Trung Quốc thành công, đáng ra các đồng chí ấy có quyền nghỉ ngơi một thời gian để hưởng thành quả cách mạng, đoàn tụ gia đình. Song vì tinh thần quốc tế cao cả, các đồng chí sang giúp ta, cán bộ ta phải biết rõ điều đó mà cố gắng học hỏi và quan tâm săn sóc...".

Các cán bộ Việt Nam đã cố gắng làm theo lời Bác, chân thành học tập và biết ơn các cố vấn, thắt chặt tình hữu nghị giữa nhân dân và quân đội hai nước Việt - Trung.

Năm 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã mời Thượng tướng Vi Quốc Thanh và gia đình sang thăm Việt Nam. Ông đã tặng Đại tướng một bức trướng có con chim ưng và dòng chữ "Đông Phong nghênh khải hoàn". Ông nói: "Những năm ở Việt Nam là thời kỳ hoàng kim trong cuộc đời hoạt động cách mạng của tôi.

Đại tướng và tướng Vi Quốc Thanh cùng hai gia đình đã đi thăm Vịnh Hạ Long và Hải Phòng. Phó Tổng Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái đã cùng tướng Vi Quốc Thanh và gia đình về thăm Điện Biên Phủ. Tôi đã cùng đi trên cương vị Trưởng phòng Ngoại vụ Bộ Quốc phòng.

Quan hệ giữa các bạn chiến đấu cũ ngày càng thân thiết. Mỗi lần Đại tướng Võ Nguyên Giáp sang Trung Quốc hay Liên Xô, khi qua Nam Ninh đều ghé thăm Thượng tướng Vi Quốc Thanh, qua Bắc Kinh ghé thăm Đại tướng Trần Canh, người được Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc cử sang Việt Nam tham gia chỉ đạo chiến dịch Biên giới thành công theo lời mời của Hồ Chủ tịch.

Tình hữu nghị Việt - Trung được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông đã dày công vun đắp. Tôi tin tưởng rằng: Với sự cố gắng của lãnh đạo và nhân dân hai nước, tình hữu nghị ấy sẽ ngày càng được củng cố và phát triển.


(*) Đầu đề là của báo Nhân Dân

(**) Trước đợt 2 chiến dịch Tây Bắc cuối năm 1952, tuyến tiếp tế từ Mậu A vào Nghĩa Lộ không hoàn thành nhiệm vụ. Quãng đường này phải qua đèo Khâu Vác cao 1.500 m, nhiều suối quanh co, bị mưa bất ngờ, đường trơn như mỡ, dân công đau ốm, một số bỏ về. Chỉ tiêu là 15 tấn/ngày mà chỉ chuyển được một nửa, có ngày chưa được một tấn.

Có thể bạn quan tâm