Cuộc gặp bất ngờ đầy xúc động
Thế là tôi đã được gặp chị ở vào cái tuổi 57 và không ngờ trông chị còn trẻ thế. Nghe tên chị, biết chuyện chị đã lâu nhưng tận hôm nay tôi mới được tiếp xúc với chị. Chị Ursula thật dịu dàng, tươi trẻ. Nào ai ngờ rằng, người phụ nữ này đã có gần 40 năm gắn bó với đất nước Việt Nam: từ khi còn là một nữ sinh viên ở Tây Berlin cho đến hôm nay, trên cương vị một vị Chủ tịch của Hội giúp đỡ y tế cho Việt Nam ở Cộng hòa Liên bang Đức.
Chồng chị - anh Nguyễn Thế Phiệt, một tiến sĩ hóa học quê ở Nha Trang. Hai người biết nhau, yêu nhau và thành lập gia đình từ năm đầu của thập kỷ 70 thế kỷ trước. Một mối tình đằm thắm nảy nở và phát triển trong phong trào đoàn kết ủng hộ nhân dân Việt Nam chống Mỹ, cứu nước. Chị tự hào nói: "Tôi đã là người Việt Nam, tôi yêu đất nước và nguyện suốt đời cống hiến cho dân tộc tôi!".
Vì rất yêu quê chồng, cái thành phố nên thơ và xinh đẹp, chị đã cùng anh tậu một căn nhà nhỏ bên bờ biển để sớm tối đi về. Dường như đã thành lệ mỗi năm chị ở Đức chừng sáu tháng, ở Việt Nam cũng chừng sáu tháng. Như một con thoi, chị là chiếc cầu gắn liền hai bầu trời Âu - Á. Còn anh chủ yếu có mặt ở Việt Nam vì hiện đang nắm ba xí nghiệp khai thác đá granit ở Khánh Hòa, Bình Định và Quảng Ngãi để xuất khẩu sang Đức, Thụy Sĩ và một số nước khác trong cộng đồng châu Âu.
Tôi xin phép gọi chị là nàng dâu ưu tú và hiếm hoi của Việt Nam. Tôi hình dung ra chị - khi còn là một sinh viên Khoa Công tác xã hội và Xã hội học giáo dục Trường ĐH Tự do Berlin - một cô gái xinh đẹp, được mệnh danh là một trong những thủ lĩnh xông xáo của phong trào sinh viên tiến bộ ở Tây Berlin. Vận động quyên góp tiền, hiến máu, mua hàng gửi sang ủng hộ nhân dân Việt Nam, tổ chức mít-tinh, biểu tình và lấy chữ ký phản đối cuộc xâm lược của Mỹ... đó là những công việc cuốn hút chị và bạn bè dường như suốt ngày, đêm. Tôi cũng hình dung ra niềm phấn khởi lớn lao của chị trong những ngày đón mừng miền nam hoàn toàn giải phóng. Với chị, những ngày lịch sử ấy như đã mở ra cả một khoảng trời để chị bay về với quê chồng.
Lần đầu đến Việt Nam, đi được khá nhiều nơi, chị nói: "Tôi thấy đất nước này thật đẹp, nhưng chiến tranh đã để lại biết bao hậu quả nặng nề!". Chị xúc động trước những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật mà con người phải chịu đựng. Và chị quyết định: phải làm một việc gì đó thiết thực hơn nữa, hiệu quả hơn nữa để giảm bớt nỗi đau của nhân dân Việt Nam. Đó chính là thời điểm chị đứng ra thành lập "Hội giúp đỡ y tế cho Việt Nam".
Cùng đông đảo bạn bè của mình, chị đi quyên góp tiền ở các cơ quan, xí nghiệp, công ty, các tổ chức từ thiện và xã hội để lấy tiền mua sắm thuốc men, máy móc và dụng cụ y tế giúp các bệnh viện ở Việt Nam. Đến nay, nhiều máy móc dùng cụ y tế, hàng nghìn đơn vị thuốc men đã được chị gửi tới các bệnh viện ở Khánh Hòa quê chồng và nhiều địa phương khác trong nước. Hội cũng đã tổ chức nhiều chuyến cho các bác sĩ Việt Nam sang Đức dự các lớp đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn. Chị hoạt động không biết mệt mỏi, vậy mà lúc nào cũng có cảm giác như làm được ít quá!
Hết lòng vì... Việt Nam
Ở Việt Nam, chị đến một số bệnh viện, tiếp xúc và giúp đỡ tiền bạc cho các bệnh nhân nghèo điều trị, trước hết là những người chịu các di chứng chiến tranh như chất độc da cam, những trẻ em bị bệnh nặng và bị khuyết tật (câm điếc, mù lòa, tâm thần...). Chương trình hoạt động của Hội do chị đứng đầu mở rộng phạm vi đến cả các bệnh viện da liễu, phong và AIDS, trung tâm cai nghiện, các trại trẻ mồ côi, các cơ sở điều trị lao và sốt rét...
Để có được nhiều tiền ngoài việc vận động quyên góp, Hội còn tổ chức bán trà, cà phê và bánh ngọt nhân dịp lễ hội, các kỳ hội nghị, các buổi thuyết trình về Việt Nam, tổ chức bán đồ cũ, các buổi sinh hoạt văn hóa, quyên góp tiền trên đường phố... Tôi được biết tại cuộc hội báo hằng năm của báo Thời đại chúng ta (Unsere Zeit), chính chị Ursula từng mở quầy hàng bán các đồ lưu niệm của Việt Nam. Tại quầy, có cờ đỏ sao vàng phấp phới bay và dòng chữ trên tấm biển lớn: "SOS!E.K.G (máy điện tâm đồ) cho Việt Nam!". Chị mặc chiếc quần đen rộng ống và chiếc áo chàm của dân tộc thiểu số, tay bưng nón trực tiếp bán hàng. Trên ngọn đồi lộng gió bên sông Rhein ở ngoại ô Duesseldorf, như còn mãi mãi hiển hiện hình ảnh tươi rói của nàng dâu Việt Nam...
Làm việc quên mình, chị mải mê mua bán, khuân vác, sắp xếp, đóng thùng y cụ, thuốc men gửi đi Việt Nam. Không chỉ các hội viên, tất cả những người có cảm tình sâu sắc với Việt Nam cũng vì yêu thương chị mà cùng ra tay giúp chị. Nhiều gian phòng trong căn nhà của chị ở Berlin và cả cái bệnh viện xưa kia của quân đội Mỹ đóng tại đây đã trở thành kho hàng của Hội. Ursula nói vui: "Bệnh viện quân đội Mỹ bây giờ cũng phục vụ Việt Nam!".
Ngồi trò chuyện vui vẻ với anh chị, tôi cho biết: Năm vừa qua, nhân chuyến công tác dài ngày ở Đức tôi đã được đọc nhiều bài báo viết về chị có kèm theo nhiều bức ảnh giới thiệu các hoạt động của chị. Cũng nhờ những bài báo ấy, tôi biết chị còn dành cả một ngôi nhà hai tầng mà chị được thừa kế ở quê nhà cho 15 sinh viên và thực tập sinh Việt Nam ở để học tập, không phải thuê nhà tốn kém...
Riêng tờ "Nhân dân Zehlendorf" rất tự hào về việc một số nhà chuyên môn và công dân thành phố Zehlendorf đã noi gương chị góp phần xứng đáng vào phong trào ủng hộ Việt Nam, xây dựng đất nước. Tôi còn giữ được tờ báo có đăng ảnh bác sĩ Wolfgang Kreischer, người vùng Zehlendorf, đang lắp ghép máy móc, dụng cụ y tế trên quê chồng của Ursula...
... Kết
Nhắc lại với chị việc Nhà nước ta đã đánh giá cao công lao của chị - qua việc trao tặng chị Huân chương Hữu nghị - tôi bày tỏ nguyện vọng sẽ được viết một cuốn sách nhỏ về cuộc đời với những cống hiến của chị cho Việt Nam, chị cười nhã nhặn: "Rất cám ơn anh! Nhưng anh biết không, còn biết bao công việc đang thúc giục tôi phải làm. Hãy vì Việt Nam trước hết! Còn viết về tôi... sau này cũng chưa muộn!".