Từ quan sát viên trở thành thành viên của WTO

Từ quan sát viên trở thành thành viên của WTO

Năm 1994, Việt Nam tham dự với tư cách là quan sát viên của GATT. Ông Lê Văn Triết, nguyên Bộ trưởng Thương mại, là một trong những người tham gia từ những ngày đầu. Ðến nay, sau 11 năm đàm phán song phương và đa phương với các đối tác, ngày 7-11-2006, tại Trụ sở của WTO ở Geneva (Thụy Sĩ) đã diễn ra phiên họp đặc biệt của Ðại hội đồng WTO về việc lễ kết nạp Việt Nam vào tổ chức thương mại lớn nhất thế giới này. Theo thông lệ của WTO, hôm nay, ngày 11-1-2007, Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của WTO và bắt đầu hưởng các quyền lợi và có nghĩa vụ thực hiện các cam kết gia nhập WTO. Nhân dịp này, phóng viên (PV) báo Nhân Dân đã phỏng vấn Ông Lê Văn Triết. Chúng tôi xin giới thiệu cùng bạn đọc nội dung cuộc phỏng vấn nói trên.

PV: Với tư cách là quan sát viên từ những ngày đầu, xin ông cho biết vài nét về bối cảnh lúc bấy giờ?

Ông Lê Văn Triết: Tôi và một số đồng chí lãnh đạo khác tham gia trong quá trình xây dựng phương án đàm phán, trình Chính phủ tổ chức đoàn đàm phán và tiến hành trong một số năm đầu. Vào thời điểm lúc bấy giờ nước ta đang bị cấm vận, hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới, do nhiều lý do, ít có quan hệ với nước ta. Mặc dù vậy, Ðảng và Chính phủ đã nhận ra xu hướng tất yếu về hội nhập của  đất  nước  với  thế  giới,nên đã giao cho lãnh đạo Bộ Ngoại giao, Bộ Thương mại... tiếp xúc, tạo mối quan hệ với GATT theo hướng: Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, tôn trọng lợi ích của nhau, bình đẳng cùng có lợi. Ða phương và đa dạng hóa quan hệ đối ngoại và kinh tế đối ngoại. Ða dạng hóa thị trường, bạn hàng. Ðổi mới tư duy đối ngoại và kinh tế thương mại, phát huy cao độ sự nhất trí của mọi tầng lớp nhân dân, nỗ lực phấn đấu trong một số năm đưa kinh tế đất nước ta vươn lên bằng với các nước trong khu vực.

Theo định hướng ấy, ngành thương mại một mặt duy trì quan hệ với thị trường truyền thống là Liên Xô, Ðông Âu (trước đây), một mặt mở rộng quan hệ sang các nước khác, bắt đầu là quan hệ song phương với các thị trường gần, mở dần ra các thị trường xa. Cùng với việc thiết lập quan hệ song phương, Việt Nam nỗ lực xây dựng các mối quan hệ và tham gia vào các tổ chức đa phương và các định chế quốc tế. Ngày 4-1-1995 nộp đơn, năm 1995, chính thức gia nhập ASEAN, ký thỏa thuận về AFTA. Tháng 3-1996, cùng ASEAN lập ra ASEM; 1998 gia nhập APEC, tham gia làm quan sát viên ở GATT sau đó nộp đơn gia nhập GATT. Một việc có tác động tốt trong quá trình chuẩn theo định hướng mới. Khởi đầu là ký Hiệp định hàng dệt và may mặc với EU, giải tỏa một phần khó khăn về việc làm do các nước trước đây từ chối không nhận hàng may mặc của nước ta theo hiệp định cũ, mở ra việc xuất khẩu gạo và hàng hóa ngày càng đa dạng cho tới nay.

Như vậy, đường lối và quá trình đổi mới của nước ta là đúng hướng, được nhân dân trong nước và nhiều bạn bè quốc tế đồng tình, tin cậy, chính qua đây tạo nên nhận thức và sức mạnh cho việc gia nhập WTO.

PV: Buổi đầu tham gia đàm phán, đã có rất nhiều bạn bè, tổ chức, cá nhân ủng hộ và tạo điều kiện giúp Việt Nam sớm gia nhập WTO, đồng chí có thể nêu một số thí dụ cụ thể?

Ông Lê Văn Triết: Trong quá trình tìm hiểu và đàm phán gia nhập GATT và WTO, chúng ta luôn được sự quan tâm giúp đỡ của bạn bè và các tổ chức quốc tế. Như ông Trần Văn Thình, quốc tịch Pháp, gốc Việt Nam, là Ðại sứ của Cộng hòa Pháp tại Ủy ban châu Âu (EC) trong ba năm 1993-1994-1995, có nhiều nỗ lực chắp nối giới thiệu về tổ chức GATT, về các định chế, vai trò thực thi các nguyên tắc kinh tế mậu dịch cho các quốc gia trên toàn cầu, diễn giải những lợi ích và khó khăn cho Việt Nam nếu gia nhập GATT. Ngay từ năm 1993, ông Thình đã khuyến nghị: Việt Nam nên nghĩ đến việc gia nhập GATT và giới thiệu ông Arthur Dunkel là Tổng Thư ký của GATT, khuyến nghị nên mời ông Arthur Dunkel hỗ trợ Việt Nam gia nhập GATT. Ông Long Vĩnh Ðồ, Trưởng đoàn đàm phán của Trung Quốc tại Thụy Sĩ về việc Trung Quốc gia nhập GATT cũng trao đổi kinh nghiệm chung quanh việc nước này đang đàm phán với các quốc gia để đạt các hiệp định song phương, v.v. Nhân dịp Bộ Thương mại Việt Nam đi dự hội nghị về Nâng cao hiệu quả thương mại và thành lập đầu mối thương mại ở Ohio (Mỹ) do UNCTAD tổ chức, ông B.B.Gahli, Tổng Thư ký LHQ đã thu xếp để đại diện Bộ Thương mại Việt Nam gặp gỡ ông Giôn Brao, Bộ trưởng Thương mại Hoa Kỳ. Ông G.Brao thông báo, sắp tới Tổng thống Hoa Kỳ tuyên bố xóa cấm vận đối với Việt Nam, thăm dò suy nghĩ của ta về vấn đề này cũng như thăm dò việc lập quan hệ ngoại giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Ông Brao đưa ra dự kiến những việc hai bên có thể làm sau khi thiết lập quan hệ ngoại giao, chủ yếu nêu ra Hiệp định kinh tế thương mại Mỹ - Việt Nam và khuyến nghị Việt Nam nên tính đến việc gia nhập GATT, coi đây là mấu chốt để mở đường cho quan hệ với các định chế rất quan trọng của thế giới như WB, IMF, ADB và khuyến nghị nên tiến hành cùng lúc bàn và ký hiệp định thương mại hai nước, đưa đơn gia nhập GATT. Ðại sứ Thụy Sĩ tại Hà Nội Phê-đơ-rích cũng đã nhiều lần (1994-1996) góp ý: Công cuộc đổi mới của Việt Nam có nhiều thành tựu, nên nộp đơn xin gia nhập GATT. Ông đã giới thiệu mục đích các hoạt động cũng như các quy tắc của GATT, giới thiệu bộ máy hành chính của GATT và về ông Arthur Dunkel, người đứng đầu GATT, khuyến nghị chúng ta nên tiếp cận làm quen với ông Dunkel và mời ông Dunkel làm cố vấn cho Việt Nam gia nhập GATT. Các cuộc gặp sau này, ông Phê-đơ-rích và Chính phủ Thụy Sĩ đã giúp Việt Nam tiếp cận ông Dunkel và giúp Việt Nam mời ông Dunkel làm cố vấn cho Việt Nam gia nhập GATT.

Vai trò của ông Dunkel rất quan trọng. Ông là người nhiều kinh nghiệm và có uy tín ở các nước, cho nên giúp ta rất có hiệu quả. Từ việc đưa ra các phương án và lộ trình đàm phán với các nước đến dự báo tình hình có thể gặp và đưa ra các hướng xử lý. Ông đã tiếp xúc với các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Ðảng và Chính phủ ta,  tìm hiểu tình hình kinh tế - xã hội, tình hình thương mại và thị trường Việt Nam trước và sau đổi mới; làm việc với các bộ, ngành Việt Nam, cung cấp thông tin về mục đích và quá trình gia nhập GATT của một số quốc gia đã tham gia hoặc đang đàm phán gia nhập GATT, những suy nghĩ và các quan niệm khác nhau trong quan hệ thương mại toàn cầu, những cọ xát và bất đồng lớn xảy ra trong một số vòng đàm phán toàn cầu (vòng Geneva, vòng Tokyo, vòng Uruguay). GATT còn cung cấp cho Việt Nam hàng nghìn trang tài liệu về những định chế cơ bản mà GATT đang chế định trong quan hệ thương mại toàn cầu và về những vấn đề lớn nhất rút ra từ các vòng đàm phán toàn cầu.

Các ông J. Kerry, McCain, bà Virginia Foot, Chủ tịch Hội đồng Thương mại Mỹ - Việt, ông Y-íp-pin-xoi, Chủ tịch Phòng Thương mại Công nghiệp Thái-lan, Công ty Luật Mắc-ken-giê và nhiều nhân vật khác mà chúng tôi không thể kể hết đã góp công sức giúp Việt Nam mở rộng quan hệ quốc tế, quan hệ với Mỹ, với GATT...

Việt Nam đã tiếp nhận hơn 2.000 câu hỏi vừa mang tính chất hỏi, vừa mang tính chất đề nghị ta làm rõ thêm những vấn đề hoặc nội dung mà đối tác quan tâm. Chúng ta đã tổ chức biên dịch và phân công các bộ, ngành chuẩn bị và trả lời các câu hỏi của các nước. Sau đó là quá trình Việt Nam lập đoàn đàm phán với các quốc gia hoặc nhóm quốc gia có chất vấn và quan tâm. Cuộc đàm phán kéo dài bắt đầu từ ngày 4-1-1995 là năm ta nộp đơn gia nhập WTO.

PV: Thưa ông, có rất nhiều ý kiến chung quanh mặt thuận lợi khi Việt Nam gia nhập WTO. Với tư cách là người có mặt từ lúc khởi đầu, ông bình luận gì về điều này?

Ông Lê Văn Triết: Tôi chỉ tham gia trong quá trình xây dựng phương án, đàm phán trình Chính phủ, tổ chức đàm phán và tiến hành trong một số năm đầu. Do vậy tôi chỉ xin trả lời thêm một số khía cạnh.

Khi đã là thành viên WTO, Việt Nam có đầy đủ tư cách để tiếp cận ngày càng sâu và rộng với các thị trường bên ngoài theo kiểu "biết người, biết ta". Ðó chính là tạo khả năng bảo vệ lợi ích của mình một cách hiệu quả nhất. Hiểu nhu cầu hàng hóa của thế giới và khả năng cung cấp của mình, chính là tạo được sức mạnh hàng hóa, thương hiệu của Việt Nam trên thị trường thế giới. Hiểu được định chế, tập quán mua bán của đối tác là tạo cơ sở thúc đẩy mạnh cải cách thể chế chính sách trong nước tạo đà để hàng hóa, dịch vụ của nước ta xâm nhập sâu rộng hơn và có tiếng nói, vai trò mạnh hơn trên thị trường quốc tế.

PV: Xin ông nói thêm về những thách thức?

Ông Lê Văn Triết: Tôi tiếp xúc với một số DN nước ta, thấy trong các cuộc gặp lớn, ít người nói ra, nhưng khi tâm sự riêng thì thấy còn băn khoăn. Thí dụ, Nhà nước không thể hỗ trợ DN bằng áp dụng những hình thức hỗ trợ xuất khẩu khi có những mặt hàng thế giới xuống giá mà giá mua trong nước cao, hoặc một số ngành DN lo có thể bị đình trệ khi thực hiện cam kết dần dần loại bỏ trợ cấp hay giảm thuế quan nhập khẩu đối với hàng hóa nước ngoài. Tôi nêu một số thí dụ như vậy, chắc là chưa bao quát hết các băn khoăn.

Việt Nam cần xác định thế mạnh và cách đi vào thị trường toàn cầu. Luật, định chế và tập quán buôn bán của WTO đa dạng vô cùng. Họ cũng đã ký với nhau biết bao nhiêu hiệp định, nghị định thư để chế tài chung cho WTO hoặc cho quan hệ song phương. Ðây là điều DN phía Việt Nam chưa hiểu biết nhiều. Vì vậy, việc sưu tầm, biên dịch, phổ biến để hướng dẫn cho cán bộ, công chức, DN và cho rộng rãi công chúng về các định chế của WTO là việc làm cần có kế hoạch, có bước đi vừa hết sức khẩn trương vừa phải kiên trì. Chương trình hành động gia nhập WTO cần được xây dựng ở các ngành, các địa phương, DN, bao gồm cả nội dung và biện pháp, thời gian thực hiện.

Cần đổi mới tư duy, nâng tầm nhận thức, buôn bán làm ăn với thế giới cũng phải có lộ trình. Thí dụ, vào WTO không chỉ khai thác hợp tác. Có lúc, có loại việc phải cạnh tranh. Ngay khi có cạnh tranh cũng làm sao không dẫn đến đối đầu mà phải dung hòa theo hướng cùng có lợi. Chúng ta nên xây dựng từng công trình, hợp tác làm ăn với nhau bền bỉ, lâu dài, bảo vệ lợi ích chung cho cả nghề, ngành và quốc gia.

Quan trọng hơn, cần đưa Việt Nam tham gia hệ thống phân phối hàng hóa thế giới. Cần định kế hoạch để sớm thực hiện. Chấm dứt việc gặp hàng gì bán hàng đó.

PV: Theo ông, chúng ta cần làm gì để có tiếng nói quan trọng trong WTO?

Ông Lê Văn Triết: Mấy chục năm qua nước ta đã tham gia ký nhiều định chế quốc tế. Có nhiều định chế sau khi tham gia, nước ta có những hoạt động tốt, có sự đóng góp mà thế giới thừa nhận. Nhưng có những định chế sau khi tham gia rồi, đạt ít hiệu quả.

Bây giờ gia nhập WTO, có nhiều yếu tố liên quan lợi ích các ngành, các lĩnh vực, nhất là  công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ... Vì vậy, cần có tổ chức về thể chế và thực thi trên tinh thần không chỉ chú trọng khai thác các lợi ích, mà còn cần thể hiện vai trò, trách nhiệm của Việt Nam để có tiếng nói quan trọng trong WTO.

PV: Xin trân trọng cảm ơn ông.

Có thể bạn quan tâm