Chính phủ ban hành Nghị định số 20/2021/NĐ-CP quy định chính sách trợ giúp xã hội (TGXH) đối với đối tượng bảo trợ xã hội (BTXH). Theo đó, mức chuẩn TGXH được điều chỉnh tăng lên 360.000 đồng/tháng áp dụng chính thức từ ngày 1-7-2021.
Trước đó, theo Nghị định số 136/2013/NĐ-CP, mức chuẩn trợ giúp là 270.000 đồng/tháng.
Mức chuẩn TGXH là căn cứ xác định mức trợ cấp xã hội, mức hỗ trợ kinh phí nhận chăm sóc, nuôi dưỡng; mức trợ cấp nuôi dưỡng trong cơ sở TGXH và các mức TGXH khác.
Với mức chuẩn TGXH áp dụng từ ngày 1-7-2021 là 360.000 đồng/tháng, tùy theo khả năng cân đối của ngân sách, tốc độ tăng giá tiêu dùng và tình hình đời sống của đối tượng BTXH, cơ quan có thẩm quyền xem xét, điều chỉnh tăng mức chuẩn TGXH cho phù hợp; bảo đảm tương quan chính sách đối với các đối tượng khác.
Tùy thuộc điều kiện kinh tế - xã hội tại địa phương, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định mức chuẩn TGXH, mức TGXH áp dụng trên địa bàn bảo đảm không thấp hơn mức chuẩn TGXH và mức TGXH quy định tại Nghị định này. Đối tượng khó khăn khác chưa quy định tại Nghị định này được hưởng chính sách TGXH.
Bên cạnh việc quy định mức chuẩn TGXH mới, Nghị định 20/2021/NĐ-CP cũng quy định về chính sách: TGXH thường xuyên tại cộng đồng; TGXH khẩn cấp; chăm sóc, nuôi dưỡng đối tượng BTXH tại cơ sở TGXH, nhà ở xã hội.
Nghị định quy định chính sách tám nhóm đối tượng bảo trợ xã hội, đối tượng được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng.
Các đối tượng quy định được hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng với mức bằng mức chuẩn TGXH nhân với hệ số tương ứng. Mức hệ số áp dụng từ mức 1,0 tới 2,5 tùy theo từng trường hợp cụ thể.
Trường hợp đối tượng thuộc diện hưởng các mức theo các hệ số khác nhau quy định tại khoản 1 Điều này hoặc tại các văn bản khác nhau thì chỉ được hưởng một mức cao nhất.
Đối tượng BTXH đang hưởng trợ cấp xã hội hằng tháng được cấp thẻ bảo hiểm y tế (BHYT) theo quy định của pháp luật về BHYT. Trường hợp đối tượng quy định thuộc diện được cấp nhiều loại thẻ BHYT thì chỉ được cấp một thẻ BHYT có quyền lợi BHYT cao nhất.
Văn bản cũng quy định về TGXH khẩn cấp với sáu hình thức. Đó là: Hỗ trợ lương thực và nhu yếu phẩm thiết yếu từ nguồn ngân sách nhà nước; hỗ trợ chi phí điều trị người bị thương nặng; hỗ trợ chi phí mai táng; hỗ trợ làm nhà ở, sửa chữa nhà ở; hỗ trợ khẩn cấp đối với trẻ em khi cha, mẹ bị chết, mất tích do thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh hoặc các lý do bất khả kháng khác; hỗ trợ tạo việc làm, phát triển sản xuất.
Riêng về hỗ trợ lương thực và nhu yếu phẩm thiết yếu từ nguồn ngân sách nhà nước, hỗ trợ 15 kg gạo/người/tháng trong thời gian một tháng cho mỗi đợt hỗ trợ đối với các đối tượng thuộc hộ thiếu đói dịp Tết Nguyên đán. Hỗ trợ không quá ba tháng cho mỗi đợt hỗ trợ cho đối tượng thiếu đói do thiên tai, hỏa hoạn, mất mùa, giáp hạt hoặc lý do bất khả kháng khác từ nguồn lực của địa phương và nguồn dự trữ quốc gia.
Hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn có nhà ở bị đổ, sập, trôi, cháy hoàn toàn do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng khác mà không còn nơi ở, được xem xét hỗ trợ chi phí làm nhà ở với mức tối thiểu 40 triệu đồng/hộ.
Hộ phải di dời nhà ở khẩn cấp theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền do nguy cơ sạt lở, lũ, lụt, thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng khác, được xem xét hỗ trợ chi phí di dời nhà ở với mức tối thiểu 30 triệu đồng/hộ.
Hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn có nhà ở bị hư hỏng nặng do thiên tai, hỏa hoạn hoặc lý do bất khả kháng khác mà không ở được thì được xem xét hỗ trợ chi phí sửa chữa nhà ở với mức tối thiểu 20 triệu đồng/hộ.
Đối tượng đang hưởng chế độ chính sách TGXH đối với đối tượng BTXH theo quy định tại Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21-10-2013 được chuyển sang mức và hệ số tương ứng quy định tại Nghị định này kể từ ngày có hiệu lực, tức là từ thời điểm 1-7-2021.
Nghị định số 136/2013/NĐ-CP ngày 21-10-2013 của Chính phủ hết hiệu lực kể từ ngày văn bản này có hiệu lực.