Họa sĩ Thục Phi:

Tranh cổ động - có một thời như thế

Đã từng có một dòng tranh được coi là “đặc sản” của mỹ thuật kháng chiến. Đã từng có một dòng tranh hiện diện trên mọi nẻo đường kháng chiến - kiến quốc, trong mọi thời khắc lịch sử cam go, hào hùng nhất của cả một dân tộc. Bâng khuâng lần giở từng trang đời ký ức cùng nữ họa sĩ lão thành Thục Phi (ảnh bên) - người lặng lẽ đồng hành cùng Xưởng tranh cổ động Trung ương trong suốt gần hai thập kỷ tồn tại, độc giả Nhân Dân hằng tháng sẽ có được một hình dung sống động và khá rõ nét, về dòng tranh chứa đựng những giá trị lịch sử vô giá này.

Ảnh: CHI MAI
Ảnh: CHI MAI

Thời gian thấm thoắt thoi đưa, mới đó mà đã hơn nửa thế kỷ trôi qua, kể từ ngày Xưởng tranh cổ động Trung ương chính thức ra đời, thưa bà?

Sau “sự kiện vịnh Bắc Bộ”, đế quốc Mỹ tăng cường chiến tranh phá hoại miền bắc. Công tác thông tin tuyên truyền và cổ động tinh thần chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, xây dựng vững chắc hậu phương được Đảng và Chính phủ đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Tôi vẫn nhớ như in nội dung bản Chỉ thị số 118/CT-TW, ra ngày 25-12-1965 về công tác thông tin trong quần chúng của Ban Bí thư Trung ương Đảng, trong đó đề ra nhiệm vụ: “Phải cổ động thường xuyên bằng các hình thức tuyên truyền nhẹ nhàng, có tính quần chúng rộng rãi” để “nhà nhà đều biết, người người đều nghe”. Ý tưởng thành lập Xưởng tranh cổ động, trực thuộc Tổng cục Thông tin của chúng tôi (gồm ba người bạn đồng môn thuộc khóa Mỹ thuật kháng chiến Lê Lam - Đặng Đức - Thục Phi) cũng được gợi ý từ đó.

Được các cơ quan hữu trách hoan nghênh và đồng ý triển khai, năm 1966, tôi chính thức chuyển công tác từ Đại học Mỹ thuật công nghiệp về Cục Thông tin Cổ động (thuộc Tổng cục Thông tin) để trở thành nhân sự đầu tiên và duy nhất của Xưởng tranh cổ động vừa manh nha thành hình. Nhân sự sau đó được bổ sung dần dần, từ họa sĩ, thợ khắc (khắc gỗ) đến thợ in (in đá, sau này có in lưới). Nói chung, ai cũng bỡ ngỡ khi bắt tay vào công việc mới mẻ, phải vừa làm vừa học, người đi trước truyền nghề và kinh nghiệm cho người tới sau. Phải chờ tới sau Triển lãm tranh cổ động toàn quốc được chúng tôi tổ chức thành công vào năm 1968, Tổng cục Thông tin mới chính thức có quyết định thành lập Xưởng. Xưởng tranh cổ động đã đồng hành cùng cuộc kháng chiến chống Mỹ, sát cánh cùng những nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh ngày đầu hòa bình lập lại. Tất cả chúng tôi đã làm việc tận tuy, hết mình, để những bức tranh cổ động hoàn thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử được giao phó.

Có thể nói, quãng thời gian xưởng tồn tại cũng chính là thời kỳ hoàng kim của dòng tranh cổ động. Không khí sáng tác ngày đó chắc rất sôi nổi, thưa bà?

Tôi vẫn nhớ ngay trong năm đầu hoạt động, Xưởng đã chọn ra được năm bộ tranh của các tên tuổi họa sĩ như Phan Thông, Lê Thanh Đức, Trường Sinh, Thái Sơn..., với những tác phẩm gây tiếng vang như Này tổng thống Johnson, Không có gì quý hơn độc lập tự do... Sau đó, làng tranh cổ động có thêm nhiều cây cọ nổi tiếng tham gia như Huỳnh Văn Gấm, Xuân Hồng, Huỳnh Phương Đông, Cổ Tấn Long Châu, Lê Lam, Huỳnh Văn Thuận, Đặng Đức, Phạm Lung, Quốc Thái, Trí Tuệ, Duy Trúc... với nhiều tác phẩm có giá trị như Thừa thắng xông lên, Giặc phá ta cứ đi, Bác vẫn cùng chúng cháu hành quân, Chung một ngọn cờ, Nhân nghĩa thắng hung tàn hay bộ tranh cập nhật liên tục con số máy bay Mỹ bị bắn cháy. Phong trào lan rộng đã thu hút rất nhiều tên tuổi lớn như Nguyễn Phan Chánh, Nguyễn Sỹ Ngọc, Nguyễn Văn Tỵ, Giáng Hương, Lương Xuân Nhị, Phan Kế An... cũng hồ hởi gửi tranh, như một cách thể hiện trách nhiệm công dân của người nghệ sĩ.

Hoàn cảnh thời chiến thiếu thốn, gian khổ cũng trở thành nguyên nhân tích cực thúc đẩy sự bùng nổ của dòng tranh cổ động. Họa phẩm, vật liệu sáng tác cho hội họa giá vẽ cực kỳ hiếm hoi và được coi như đồ xa xỉ. Hồi đó, việc treo tranh trong triển lãm là cực khó. Không treo thì không có tiền nhuận bút mua họa phẩm. Tranh cổ động trở thành cứu cánh đắc lực giúp họa sĩ nuôi nghề, bởi thường được sáng tác bằng chất liệu bột mầu trên giấy in báo (khổ to, mỏng) rất dễ kiếm, với kích thước chuẩn 79x54cm. Tranh được nhân bản theo hai hình thức: hoặc thuê người sao chép tranh chuyên nghiệp vẽ lại nguyên cỡ, hoặc được in lưới với kích thước 25% bản gốc. Nếu in li - tô, in bằng bản khắc gỗ thì kích thước tranh bé đi chút nữa.

Được sáng tác với kỹ thuật đồ họa đơn giản, dễ lan tỏa rộng rãi, chỉ một bản khắc có thể in ra hàng nghìn bức tranh nên thù lao cho tác giả cũng tạm đủ sống. Tôi nhớ với khoảng 100 bức tranh được trưng bày trong mỗi kỳ triển lãm, chúng tôi phải kỳ công chọn ra từ cả nghìn tác phẩm hào hứng tham dự. Vẽ tranh cổ động sau này đã trở thành phong trào, sinh viên - thầy giáo - họa sĩ đua nhau vừa sáng tác vừa chép tranh. Họa sĩ nổi tiếng góp thêm một vũ khí hữu hiệu cho kháng chiến. Người chưa nổi danh có đất để sáng tác, kiếm tiền, dưỡng nuôi giấc mơ nghệ thuật. Và tất cả cùng chung tay giữ cho mỹ thuật kháng chiến một sức sống mạnh mẽ và lâu bền.

Theo họa sĩ Trịnh Tú, “tranh cổ động có được một diện mạo nghệ thuật điển hình của chủ nghĩa hiện thực XHCN”. Xin được hỏi đánh giá của riêng bà?

Tranh cổ động là dòng tranh kháng chiến tập hợp được đông đảo giới mỹ thuật cũng như công chúng yêu hội họa. Với số lượng tác phẩm đồ sộ, tranh cổ động đã đi vào đời sống nghệ thuật và cuộc sống thường ngày của cả một dân tộc, trong cả thời chiến lẫn thời bình. Dòng tranh này có những đặc thù riêng biệt, khác hẳn với những quy chuẩn quốc tế của thể loại affiche, poster. Vì hướng tới mọi đối tượng quần chúng nên tranh cổ động của ta phải nói bằng hình ảnh, ít lời nhiều ý, nói rõ (theo cách nôm na, dễ hiểu nhất để tránh gây hiểu nhầm). Thông điệp mà tranh đưa ra phải mạnh, hình ảnh phải có sức thúc giục người xem hành động theo sự chỉ dẫn, động viên, khích lệ đó. Không phải ngẫu nhiên mà tranh cổ động giờ được các nhà sưu tập trong và ngoài nước săn lùng rất nhiều. Ngoài giá trị lịch sử vô giá, thông điệp nội dung và nghệ thuật mà nhiều tác phẩm trong giai đoạn hoàng kim chuyển tải đã in hằn trong trí nhớ của rất nhiều thế hệ người Việt.

Một số tác phẩm tranh cổ động.

Nhân nhắc tới sự săn lùng của các nhà sưu tập, xin được tò mò, số lượng tranh cổ động đồ sộ ngày ấy giờ có số phận ra sao, thưa bà?

Chỉ tính riêng từ năm 1974 đến năm 1985, khi Triển lãm tranh cổ động toàn quốc được tổ chức thường niên, mỗi năm cũng có tới 100 đến 150 tác phẩm xuất sắc được chọn lựa đồng nghĩa có khoảng hai nghìn tranh đã đến được với đông đảo công chúng. Số rất ít được Bảo tàng Mỹ thuật lựa chọn, còn lại tặng hết cho Bảo tàng Cách mạng lưu giữ. Nhận thức đây là dòng tranh quý, đặc biệt là ở giá trị lịch sử, chúng tôi đã lưu trữ, bảo quản khá cẩn thận, đã bàn giao cả kho tranh khi xưởng chính thức sát nhập với một đơn vị khác vào năm 1985. Giờ chúng tản mát đi đâu, còn lại những gì, chúng tôi không biết. Nhưng tôi biết chắc, một bản tranh cổ động ngày đó giờ có thể bán được với giá vài trăm đô - la, dù thật - giả, tranh gốc - tranh chép cực kỳ khó phân định. Tiếc đứt ruột, nhưng cũng đành chịu. Thôi thì cố nghĩ cho nhẹ lòng, rằng cả dòng tranh lẫn những người bền bỉ đồng hành cùng tranh cổ động đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của riêng mình. Đành vậy!

Họa sĩ Thục Phi là sinh viên khóa Mỹ thuật kháng chiến của trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương và cũng là một họa sĩ sáng tác tranh cổ động có tiếng. Với Xưởng tranh cổ động, bà đảm nhiệm vai trò Phó Giám đốc (1976 - 1979) và Giám đốc (1979 - 1986).

Bảng thống kê lượng tranh mà Xưởng tranh cổ động Trung ương phát hành trong suốt một thập kỷ (từ năm 1975 đến 1984), được đánh máy trên tờ giấy pơ - luya đã vàng ố màu thời gian mà họa sĩ Thục Phi cẩn thận lưu giữ được đã cung cấp những con số rất ấn tượng. 1975 - năm đầu tiên thống nhất đất nước, 20 mẫu tranh đã được in lưới, với số lượng 10.000 bản; chín bộ tranh được in máy, gồm 42 500 bức; lượng vẽ tay là 1.150 bức cho 15 bộ tranh; tranh vẽ tay làm công tác đối ngoại cũng có tới 10 bộ, với 280 bức. Năm 1984 - năm cuối cùng Xưởng tồn tại, đã có 24 mẫu, với 22.400 bức tranh được in lưới; 3 bộ với 10.000 bức tranh được in máy; 2.454 bản tranh vẽ tay phục vụ địa phương và 1.000 bản phục vụ cho công tác đối ngoại. Đảm nhận một khối lượng công việc khổng lồ như thế nhưng biên chế của Xưởng khá khiêm tốn, chỉ dao động từ 16 đến 19 người.

Có thể bạn quan tâm