Đổi mới công tác đào tạo nhân lực cho các khu công nghiệp, khu chế xuất ở nước ta hiện nay

Trong 30 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới (1986-2016), khu vực sản xuất công nghiệp ngày càng được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm và từng bước có sự phát triển. Đến nay, cả nước đã có khoảng 300 khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất (KCX) được phân bổ ở hầu hết các tỉnh, thành phố, với hơn hai triệu người lao động đang làm việc.

Những năm gần đây, các KCN, KCX đã đóng góp hơn 80 tỷ USD kim ngạch xuất - nhập khẩu hằng năm, chiếm khoảng 35% tổng kim ngạch xuất - nhập khẩu của nền kinh tế, góp phần quan trọng trong việc đưa đất nước ta sớm ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành một nước có thu nhập trung bình, từng bước xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH).

Càng phát triển và hội nhập sâu, rộng với các nước trong khu vực và thế giới, yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho các KCN, KCX ngày càng cao. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (2011-2020) được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng thông qua đã nêu rõ một trong ba đột phá chiến lược phát triển là: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ". Những nội dung quan trọng, cơ bản về lĩnh vực này cũng tiếp tục được phân tích, đề cập trong nội dung Văn kiện Đại hội XII của Đảng. Định hướng đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được coi là nền tảng cơ bản để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực quốc gia, nhất là nguồn nhân lực phục vụ trong các KCN, KCX. Một trong những việc được pháp luật hóa định hướng này, đó là Quốc hội đã thông qua Luật Giáo dục nghề nghiệp (GDNN), hình thành hệ thống GDNN với ba cấp trình độ đào tạo là sơ cấp, trung cấp và cao đẳng, đồng thời hình thành ba loại cơ sở GDNN là trung tâm GDNN, trường trung cấp và trường cao đẳng. Thủ tướng Chính phủ cũng đã quyết định phê duyệt Chiến lược phát triển nghề Việt Nam thời kỳ 2011-2020 và Đề án Trường nghề chất lượng cao đến năm 2020, tạo cơ sở, nền tảng pháp lý cũng như hình thành các chính sách hỗ trợ phát triển dạy nghề ở nước ta.

Theo đó, hệ thống các trường nghề của nước ta đã được củng cố và phát triển mạnh mẽ, mạng lưới đào tạo nghề đã phủ kín toàn quốc. Tính đến tháng 12-2015, cả nước có 1.467 cơ sở đào tạo nghề; đội ngũ giáo viên dạy nghề là 40.615 người, cán bộ quản lý 11.662 người; cơ sở vật chất đã được đầu tư nâng cấp, nhất là các trường nghề chất lượng cao, góp phần quan trọng đào tạo nhân lực kỹ thuật, đáp ứng năng lực cạnh tranh của người lao động và của quốc gia. Các cơ sở dạy nghề đã bước đầu đạt được mục tiêu của Chiến lược phát triển nghề Việt Nam thời kỳ 2011-2020. Có 45 trường đã được kiểm định để triển khai Đề án đầu tư phát triển thành trường nghề chất lượng cao.

Trên cơ sở phát triển của các trường nghề, Tổng cục Dạy nghề đã xây dựng tiêu chuẩn kỹ năng nghề quốc gia cho 190 nghề và đã ban hành 189 nghề, chuyển giao 18 bộ chương trình kỹ năng nghề cấp độ khu vực và quốc tế; xây dựng 82 bộ ngân hàng đề thi đánh giá kỹ năng nghề quốc gia và đưa vào sử dụng 62 bộ; hình thành đội ngũ đánh giá viên được đào tạo cơ bản, có thể đảm nhận được nhiệm vụ đánh giá kỹ năng nghề cho người lao động; cấp giấy chứng nhận cho 32 trung tâm đánh giá kỹ năng nghề quốc gia.

Tuy nhiên, công tác đào tạo nghề vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. Việc kết nối giữa đào tạo với việc sử dụng lao động ở các doanh nghiệp còn hạn chế. Chất lượng và cơ cấu nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu và nhu cầu của thị trường lao động, nhất là ở các KCN, KCX. Nhiều lĩnh vực nghề giúp cho lao động xuất khẩu chưa được tập trung. Trong các cơ sở dạy nghề, mặc dù công tác chuẩn hóa đội ngũ giáo viên đã được chú trọng, nhưng vẫn còn một bộ phận khá lớn giáo viên chưa đạt chuẩn, nhất là về kỹ năng nghề và trình độ ngoại ngữ, tin học.

Vì những lý do kể trên, công tác tuyển sinh ở nhiều cơ sở dạy nghề rất khó khăn. Những năm gần đây tuy có tăng so với năm 2012 nhưng cũng chỉ đạt xấp xỉ kế hoạch đề ra và chủ yếu tập trung vào trình độ sơ cấp nghề và dạy nghề dưới ba tháng và chủ yếu chỉ tập trung ở năm thành phố lớn. Ở nhiều địa phương, công tác tuyển sinh rất khó khăn, thậm chí có nhiều trường “trắng” học viên. Sau 5 năm (2011-2015) thực hiện Chiến lược phát triển nghề, tỷ lệ tuyển sinh vào trung cấp nghề và cao đẳng nghề chỉ đạt 53,4% kế hoạch, trong khi nhu cầu công nhân có tay nghề cao ở các KCN, KCX còn rất lớn. Công tác xã hội hóa tài chính tuy đã có nhiều cải thiện nhưng chưa nhiều, nguồn chi cho GDNN vẫn chủ yếu là từ nguồn ngân sách Nhà nước.

Thực tế đó đã dẫn đến nhiều chỉ tiêu trong chiến lược phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đạt, trong khi lao động qua đào tạo ở trình độ cao lại đang chịu thất nghiệp ở mức cao và tăng lên rất nhanh (quý I-2016, 225.000 người có trình độ từ cử nhân trở lên bị thất nghiệp). Nhiều KCN chỉ có khoảng 20% số lao động được đào tạo có bằng chuyên môn kỹ thuật (chung là 17,9%, nông thôn là 11,2%); số lượng lao động Việt Nam đi ra nước ngoài làm việc theo hợp đồng chủ yếu vẫn là lao động chưa qua đào tạo. Ở trong nước, khoảng 80% số người lao động trong khu KCN, KCX là lao động phổ thông. Những yếu kém nêu trên dẫn đến năng suất lao động thấp, sản xuất công nghiệp và giá trị các sản phẩm công nghiệp ở nước ta còn thấp xa so với các nước trong khu vực, dẫn đến khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta trong môi trường toàn cầu hóa còn nhiều khó khăn, bất cập.

Trên thực tế, nhiều lao động sau khi đào tạo không đáp ứng được tay nghề của các doanh nghiệp, do đó nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không tham gia vào quá trình đào tạo nghề của nước ta và cũng không muốn nhận sinh viên tốt nghiệp, mặc dù họ luôn thiếu lao động có kỹ thuật. Nhiều doanh nghiệp tự đào tạo lao động, vì thiếu tin tưởng vào chất lượng của các cơ sở đào tạo mà chúng ta đang có.

Để khắc phục những hạn chế và nâng cao chất lượng trong công tác đào tạo nghề, góp phần thực hiện tốt Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) “về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”, trong những năm tới cần bám sát vào mục tiêu của Nghị quyết và nhu cầu của xã hội, tăng cường công tác dạy nghề, bảo đảm đáp ứng kịp thời nguồn nhân lực trước mắt cũng như lâu dài cho các KCN, KCX. Trong đó, tập trung vào một số giải pháp sau đây:

Một là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của GDNN theo hướng lấy người học làm trung tâm, coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Trong tương lai, GDNN vẫn được coi là một phương tiện quan trọng nhằm đạt được các mục tiêu cơ bản của xã hội, như đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, giảm thất nghiệp của thanh niên và tranh thủ mặt tích cực của toàn cầu hóa.

Hai là, đổi mới chính sách gắn kết cơ sở GDNN với các bên liên quan như cơ quan quản lý nhà nước về GDNN, đại diện giới chủ (VCCI) bảo đảm cho các hoạt động của hệ thống GDNN hướng vào đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động nói chung và của các KCN, KCX nói riêng. Điều này, giúp khắc phục tình trạng các cơ sở GDNN đào tạo tràn lan và chỉ đào tạo những thứ “mình có” mà không đào tạo những thứ “thị trường lao động cần” như lâu nay. Việc nâng cao khả năng quản lý của các cơ quan nhà nước sẽ giúp cho các cơ sở GDNN bảo đảm tính định hướng đúng đắn, minh bạch trong quá trình đào tạo…

Ba là, đổi mới cơ chế tài chính, huy động mạnh mẽ sự tham gia đóng góp của xã hội vào quá trình đào tạo, nhất là đóng góp của người học và của các đơn vị sử dụng lao động. Vốn đầu tư cho GDNN của nước ta chỉ mới chiếm khoảng 6,6% trong tổng chi ngân sách nhà nước cho giáo dục và đào tạo, trong khi sự đóng góp từ bên ngoài cũng còn rất thấp (chiếm 36,8%). Các cơ sở sử dụng lao động gần như coi việc đào tạo nghề là nhiệm vụ của Nhà nước cho nên ít quan tâm đến đóng góp kinh phí đào tạo nghề. Đó cũng là nguyên nhân làm cho các cơ sở GDNN thiếu năng động trong quá trình đào tạo. Do thiếu vốn, không đủ cho nhu cầu cho nên nguồn chi đào tạo nghề thường không tới ngưỡng cần thiết, dẫn đến sự đầu tư dàn trải, thời gian đầu tư bị kéo dài quá mức, nhất là đầu tư cho các trường nghề trọng điểm, vừa làm giảm hiệu quả đầu tư tài chính, vừa xảy ra tình trạng yếu kém về chất lượng đào tạo.

Bốn là, chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong GDNN. Nghị quyết 29-NQ/TW nêu rõ: “Chủ động, tích cực hội nhập quốc tế để phát triển giáo dục và đào tạo, đồng thời giáo dục và đào tạo phải đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế để phát triển đất nước”. Thể chế hóa quan điểm của Đảng, Chính phủ đã phê duyệt Đề án Hội nhập quốc tế về giáo dục và dạy nghề đến năm 2020, với mục tiêu chung, phát triển một số cơ sở dạy nghề đến năm 2020 đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế giới; đổi mới nội dung, chương trình đào tạo và dạy nghề tiếp cận nền giáo dục tiên tiến của các nước; tiến tới công nhận văn bằng, chuyển đổi tín chỉ và kỹ năng nghề giữa Việt Nam với các nước ASEAN và các nước khác trên thế giới…

Năm là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền GDNN gắn với tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 29-NQ/TW về giáo dục, làm cho các cấp, các ngành và người dân, nhất là thanh thiếu niên hiểu được tầm quan trọng của GDNN. Trong đó, chú trọng tuyên truyền những đổi mới về chủ trương, chính sách, pháp luật về GDNN; những nội dung đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, như đổi mới chương trình và phương pháp dạy và học; hình thức và phương pháp tuyển sinh, thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục và đào tạo, GDNN; hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân và quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục đào tạo, GDNN; phân luồng và định hướng GDNN ở giáo dục phổ thông; công tác quản lý, trách nhiệm của các cơ sở GDNN…

Giáo dục nghề nghiệp tồn tại trong quá khứ, ngày hôm nay và trong tương lai vẫn với tầm quan trọng đặc biệt như là một lĩnh vực có trách nhiệm cải cách xã hội, là đòn bẩy hiện đại hóa nền kinh tế của một đất nước và để đạt được mức thu nhập cao trên một đầu người. Vì vậy, mọi sự quan tâm đổi mới công tác GDNN đều hữu ích cho sự phát triển và hội nhập hiện nay của chúng ta.