Thương tiếc anh Trần Bạch Ðằng - một cán bộ cách mạng trung kiên, một cây bút sắc sảo

Thương tiếc anh Trần Bạch Ðằng - một cán bộ cách mạng trung kiên, một cây bút sắc sảo

Không đột ngột vì từ khi anh vào cấp cứu ở Bệnh viện Chợ Rẫy và sau đó vào phòng chăm sóc đặc biệt, nhất là lần cuối cùng vào thăm anh ngày 15-4, anh hôn mê và thở bằng máy, chúng tôi linh cảm rằng ngày giờ anh vĩnh biệt cõi đời, chia tay chúng tôi không còn xa nữa.

Rất đau xót vì Ðảng ta mất một đảng viên, một cán bộ trung kiên có nhiều thành tích đóng góp cho cách mạng trên 60 năm. Mặt trận chính trị-tư tưởng mất một cây bút sắc sảo trên nhiều lĩnh vực: báo chí, văn, thơ, sân khấu, cải lương, điện ảnh, nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu lịch sử. Riêng tôi mất một đồng chí thân yêu, một người bạn tri kỷ, một người anh chí tình, dù anh và tôi cùng tuổi nhau.

Anh Trần Bạch Ðằng, tên gọi thân thương là Tư Ánh, có một cuộc đời hoạt động cách mạng hết sức phong phú. Anh sinh năm 1926 tại Hòa Thuận, Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang. Tham gia cách mạng từ những năm tiền khởi nghĩa, tháng 3-1945 anh làm Bí thư khu Ngã Sáu Chợ Lớn kiêm Ủy viên BCH Tổng Công đoàn Nam Bộ. Tham gia cướp chính quyền tại Sài Gòn, ngày đầu Nam Bộ kháng chiến, anh làm chính trị viên bộ đội Bình Ðăng. Anh đã từng đảm đương các trọng trách: Ủy viên Thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn phụ trách tuyên huấn; Trưởng ban Thanh vận Xứ ủy Nam Bộ; Bí thư Ðoàn Thanh niên cứu quốc Nam Bộ kiêm Phó Ban Tuyên huấn Xứ ủy, Chủ bút báo Nhân Dân miền nam; phụ trách Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ; Ủy viên Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam - phụ trách thông tin - văn hóa kiêm Chủ tịch Hội đồng văn học nghệ thuật giải phóng; Ủy viên Thường vụ Ðặc khu ủy Sài Gòn - Gia Ðịnh. Trong Tổng tiến công Mậu Thân 1968, anh làm Phó Bí thư Ðảng ủy Bộ Tư lệnh Tiền phương Nam. Năm 1970, anh làm Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia Ðịnh... Hòa bình lập lại, từ năm 1978, anh giữ chức Phó trưởng Ban Dân vận T.Ư rồi chuyển sang công tác ở Ban Tuyên huấn T.Ư, làm chuyên gia công tác tư tưởng văn hóa, viết báo, văn, nghiên cứu khoa học xã hội.

Trong những năm kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, tôi có may mắn được công tác, làm việc bên anh Trần Bạch Ðằng một thời gian.

 

Nhiều đoàn thể, đồng chí, đồng đội đến viếng đồng chí Tư Ánh
(ảnh: Tuổi trẻ).

Tôi rất phục anh. Anh viết rất nhanh mà sắc sảo. Những bài xã luận viết trên báo Nhân Dân miền nam hay trên Ðài phát thanh Giải Phóng anh lấy tên là Ðại Nghĩa. Viết bình luận chính trị anh ký tên Trần Quang, làm thơ lấy tên Hưởng Triều, viết kịch bản lấy tên Nguyễn Trường Thiên Lý. Các tên này đều gắn với tên những  người  trong  gia  đìnhmà anh rất gắn bó. Quang là tên con trai anh, Hưởng là tên vợ, Triều là tên anh, Nguyễn Trường Thiên Lý là tên cháu ngoại, Tư Ánh là tên thường dùng trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, chính là tên con gái anh. Anh gắn bó với gia đình chỉ bằng bút danh khi viết bài, khi sáng tác nhưng lại sống, chiến đấu rất xa gia đình. Chị Chơn vợ anh vào tù, anh chỉ gặp lại sau khi chị được thả tự do và rồi chị đi dự Hội nghị Paris. Lúc đó, đồng chí Lê Ðức Thọ cảm thông gia đình chia cắt, cho chị về nước để gặp anh.

Tôi rất phục anh vì về mặt lý luận chính trị, mặc dù anh không học qua trường lớp như tôi. Tôi học rất nhiều cả trong nước và nước ngoài nhưng ứng dụng không nhiều, không hiệu quả bằng anh, hiểu biết không sâu rộng bằng anh. Ðiều này nói lên việc anh đọc rất nhiều, học rất nhiều qua sách báo và nhất là trong thực tiễn chiến đấu. Anh không vì thế mà kiêu ngạo. Một số bài viết của anh có tính lý luận hay những bản góp ý cho lãnh đạo anh đều tham khảo ý kiến tôi vì anh thường gọi đùa tôi là "thầy đồ mác-xít". Tôi và anh nhiều khi tranh luận với nhau, có lần khá gay gắt. Tranh luận dữ dội nhưng sau đó lại thân thiết. Anh không bao giờ giận tôi vì đã có nhiều khi nói trái ý anh.

Anh không chỉ có nhiều đóng góp trong lĩnh vực chính trị tư tưởng mà anh còn có nhiều đóng góp trong lĩnh vực văn hóa - văn nghệ. Anh có nhiều tác phẩm sống được trong lòng độc giả. Về truyện có: Bác Sáu Rồng, Chân dung một quản đốc, Ván bài lật ngửa (6 tập); về thơ có: Bài ca khởi nghĩa, Hành trình, Ðất nước vào xuân; chính luận có: Ðồng bằng Sông Cửu Long 40 năm, Người công giáo Việt Nam, Hãy tin chúng tôi, Kẻ sĩ Gia Ðịnh; kịch bản có: Nửa tuần trăng kỳ lạ, Tình yêu và lời đáp, Hai Cũ. Anh còn là thành viên Ban chỉ đạo biên soạn bộ sách Ðịa chí văn hóa TP Hồ Chí Minh và là Ủy viên Thường trực kiêm Tổng Biên tập công trình nghiên cứu lịch sử Nam Bộ kháng chiến.

Ðối với công việc thì như thế. Ðối với đồng chí, bạn bè, đồng nghiệp và cán bộ của anh thì anh rất cởi mở và chân tình. Chính chỗ này đã giúp anh tập hợp được một đội ngũ cán bộ cả kháng chiến và các trí thức trẻ làm việc chung quanh anh dưới sự chỉ đạo của anh. Hiện nay có nhiều đồng chí lớn tuổi đã về hưu nhưng sẵn sàng hợp tác với anh trong các công trình khoa học mà anh được phân công đảm trách chỉ vì "ân tình" với anh. Lịch làm việc của anh rất dày. Các bài báo anh viết rất đều đặn, đăng tải trên nhiều báo. Ðề tài anh viết rất phong phú, rất thời sự vì ngoài việc đọc nhiều báo hằng ngày (mỗi ngày anh mua và đọc hơn chục tờ báo) và qua đi vào chợ, vào các quán cóc mỗi sáng đi tập thể dục về ghé để thăm hỏi bà con. Anh nói vui: Phải "vi hành" vì cuộc sống của dân chính là ở nơi đây.

Viết báo với anh là nghĩa vụ. Ngay những ngày trên giường bệnh anh cũng viết. Tôi khuyên anh nghỉ để thư giãn và giữ sức khoẻ. Anh bảo: "Thư giãn với tôi là viết để góp ý với Ðảng vì nhân dân. Ðó là việc cần làm. Nghỉ mà không suy nghĩ việc của dân, của nước là phí của trời cho".

Sẽ là thiếu sót nếu không nêu lên một tính cách rất Bạch Ðằng của anh là tính độc lập suy nghĩ, tính sáng tạo trong lãnh đạo, chỉ đạo. Một điểm nữa đáng để suy ngẫm là tinh thần trách nhiệm của anh. Với công trình "Nam Bộ kháng chiến" (giai đoạn chống Mỹ, cứu nước) do anh làm Tổng Biên tập, Ban Thường trực Hội đồng trong đó có anh đã góp ý kiến đến lần thứ 9, đọc lại anh vẫn thấy còn nhiều điểm phải sửa cho đúng tầm vóc công trình lớn mà nhân dân mong đợi. Trong thư gửi Thường trực Hội đồng chỉ đạo anh viết: "Không có gì đau khổ hơn là cuối đời nhận một trách nhiệm Ðảng, Nhà nước giao cho lại thực hiện trầy trật. Dù lạc quan đến đâu, tôi vẫn day dứt. Xin được báo cáo tất tình với các đồng chí". Anh thật chu đáo cho chuyến đi xa, còn day dứt một công trình mà anh tâm huyết, một công trình trải dài làm sống lại một giai đoạn sôi nổi cả cuộc đời cách mạng của anh. Anh mong ước phải sửa lại nhưng tiếc rằng anh đã ra đi.

Nay anh đã đi xa, nỗi đau xót thật là vô hạn với gia đình anh. Với chúng tôi, bạn của anh, nỗi đau xót này cũng khó có thể nguôi ngoai khi công việc do anh chủ trì từ nay gặp trở ngại rất lớn do thiếu anh - Con chim đầu đàn.

Thưa anh, việc anh để lại khá nặng nề, chúng tôi sẽ cố gắng làm hết sức mình hoàn thành công việc.

Vĩnh biệt anh, đồng chí Trần Bạch Ðằng.

Ông TRẦN BẠCH ÐẰNG (Tư Ánh), sinh năm 1926, tại Hòa Thuận (Giồng Riềng, Kiên Giang); tham gia cách mạng năm 1941, vào Ðảng Cộng sản Ðông Dương tháng 11-1943; tháng 3-1945 làm Bí thư khu ngã 6 Chợ Lớn, kiêm Ủy viên Ban Chấp hành Tổng Công đoàn Nam Bộ. Tham gia cướp chính quyền tại Sài Gòn. Ngày đầu kháng chiến  chống thực dân Pháp (23-9-1945) làm Chính trị viên bộ đội Bình Ðăng.

Năm 1946 làm Ủy viên Thường vụ Thành ủy Sài Gòn - Chợ Lớn, phụ trách Tuyên huấn.

Năm 1947 làm Trưởng ban Thanh vận Xứ ủy. Là đại biểu chính thức của Ðảng bộ Nam Bộ đi dự Ðại hội Ðảng Cộng sản toàn quốc lần thứ II (1949), bị giặc bắt trên đường đi tại Dốc Mỏ (nam Tuy Hòa), bị kết án tử hình, sau đó vượt ngục. Năm 1950, làm Bí thư Ðoàn Thanh niên cứu quốc Nam Bộ, kiêm Phó ban Tuyên huấn Xứ ủy (Trung ương Cục). Chủ bút báo Nhân Dân miền nam và Chủ nhiệm Tạp chí Việt Xô (với bút hiệu Trương Chí Công). Sau Hiệp định Geneva, phụ trách Ban Tuyên huấn Xứ ủy Nam Bộ. Năm 1960, làm Ủy viên Chủ tịch đoàn Ủy ban Trung ương Mặt trận Dân tộc giải phóng miền nam, phụ trách Thông tin - Văn hóa, kiêm Chủ tịch Hội đồng Văn học - Nghệ thuật giải phóng.

Năm 1965 là Ủy viên Thường vụ Ðặc khu ủy Sài Gòn - Gia Ðịnh, Bí thư nội thành. Trong chiến dịch Mậu Thân, là Phó Bí thư Ðảng ủy Bộ Tư lệnh Tiền phương Nam, Bí thư Ðảng ủy Quân sự thành phố. Năm 1970 là Bí thư Khu ủy Sài Gòn - Gia Ðịnh.

Năm 1976, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam. Từ năm 1978, làm Phó trưởng  Ban Dân vận Trung ương. Năm 1981, công tác ở Ban Tuyên huấn Trung ương. Năm 1982, là chuyên gia công tác tư tưởng văn hóa, viết báo, văn, nghiên cứu khoa học xã hội, giúp Trung ương và Chính phủ một số vấn đề về chiến lược tư tưởng, kinh tế - xã hội.

Các tác phẩm chính về truyện có: Bác Sáu Rồng, Chân dung một quản đốc, Ván bài lật ngửa (6 tập)... về thơ có: Bài ca khởi nghĩa, Hành trình, Ðất nước vào xuân...; chính luận có: Ðồng bằng sông Cửu Long 40 năm, Người Công giáo Việt Nam, Hãy tin chúng tôi, Kẻ sĩ Gia Ðịnh...; kịch bản có: Nửa tuần trăng kỳ lạ, Tình yêu và lời đáp, Ván bài lật ngửa, Hai Cũ... và chỉ đạo biên soạn Ðịa chí Văn hóa thành phố  Hồ Chí Minh, Ủy viên Thường trực kiêm Tổng Biên tập lịch sử Nam Bộ kháng chiến. Là tác giả nhiều bài chính luận trên các báo.

Ông đã được Ðảng và Nhà nước tặng thưởng: Huân chương Ðộc lập hạng nhất, Huân chương Giải phóng hạng nhất, Huân chương Kháng chiến hạng nhất, Huân chương Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hạng nhất, Huân chương Ðại đoàn kết dân tộc, Huy hiệu 60 năm tuổi đảng.

Có thể bạn quan tâm