Sau sáp nhập địa giới hành chính, vùng Đông Nam Bộ còn ba địa phương là Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Tây Ninh, mở ra các cơ hội cho phát triển kinh tế vùng, đột phá về hạ tầng giao thông và liên kết vùng thực chất hơn.
"Khoảng trống" thể chế
Theo các chuyên gia, dù có vị thế kinh tế dẫn đầu cả nước, nhưng thể chế vùng Đông Nam Bộ hiện tại còn nhiều khoảng trống (hệ thống điều phối chưa mạnh, chính sách tài chính nặng về tính địa phương); hạ tầng giao thông nội vùng chưa đồng bộ, thiếu quy định liên tỉnh bắt buộc.
Phó Giáo sư, Tiến sĩ Vũ Tuấn Hưng, Viện trưởng Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ cho biết, mặc dù đã có nhiều nỗ lực liên kết giữa các địa phương trong vùng nhưng vẫn còn thiếu tính chặt chẽ, chưa khai thác hết tiềm năng về hạ tầng, chuỗi cung ứng, khoa học, công nghệ, nguồn nhân lực và các ngành kinh tế mũi nhọn. Khoảng trống này không chỉ hạn chế sự phát triển của từng địa phương mà còn ảnh hưởng tới sức cạnh tranh tổng thể của cả vùng Đông Nam Bộ.
Các chuyên gia cho rằng, cần hoàn thiện thể chế liên kết vùng bằng việc quy hoạch chiến lược phát triển chung, cơ chế tài chính chung, đầu tư hạ tầng trọng điểm và tăng cường hiệu lực của Hội đồng điều phối vùng. Đông Nam Bộ nên được xác định là vùng thí điểm một số cơ chế mới (thí điểm tài chính-đầu tư đặc thù, khuyến khích hợp tác liên vùng). Khi đó, nguồn lực lớn trong nước và quốc tế sẽ được huy động, rào cản phát triển sẽ giảm bớt, giúp vùng Đông Nam Bộ phát triển bứt phá và đóng góp xứng đáng vào nền kinh tế quốc gia trong bối cảnh mới.
Tiến sĩ Hoàng Văn Tú, Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: “Các cơ chế phối hợp liên vùng vẫn ở mức ban đầu và chưa đủ mạnh để “điều hòa” hiệu quả giữa các địa phương thành phần sau khi sáp nhập. Việc sáp nhập hạ tầng hành chính đã tạo ra tiềm năng hợp lực lớn hơn, nhưng cũng đặt ra thách thức mới về thiết lập cơ chế quản lý, điều phối chung”.
Cũng theo Tiến sĩ Hoàng Văn Tú, khung thể chế liên kết vùng Đông Nam Bộ hiện nay chưa hoàn thiện, thiếu tính ràng buộc pháp lý. Hạn chế cốt lõi của liên kết kinh tế vùng xuất phát từ việc thể chế liên kết vùng chưa được hình thành đầy đủ và thống nhất. Dù đã có nhiều nghị quyết, chương trình và kế hoạch hành động, tuy nhiên các quy định về liên kết bắt buộc vẫn còn chung chung, thiếu cơ chế vận hành thực thi rõ ràng. Khung pháp lý vẫn chưa có văn bản ở cấp luật hoặc nghị định chuyên biệt điều chỉnh quyền-nghĩa vụ-trách nhiệm giữa các tỉnh, thành phố trong vùng, nhất là các quy định về phân bổ ngân sách liên vùng, chia sẻ nguồn lực, phối hợp đầu tư và điều phối các dự án hạ tầng liên tỉnh.
Bộ máy điều phối vùng mới chỉ ở dạng hội đồng điều phối, chủ yếu dựa trên sự tự nguyện của các chủ thể thay vì quyền hạn đủ mạnh để hoạch định và “cưỡng chế” thực thi. Điều này khiến “luật chơi” liên kết vùng mờ nhạt, “người chơi” vẫn chủ yếu hoạt động theo logic “kinh tế tỉnh”, và “sân chơi” thiếu các công cụ tài chính đặc thù để thúc đẩy hợp tác bắt buộc. Hệ quả là sự phối hợp liên vùng rời rạc, dễ rơi vào tình trạng mạnh tỉnh nào tỉnh nấy làm, dẫn đến phân tán nguồn lực và khó huy động sức mạnh tổng hợp của toàn vùng.
Hoàn thiện cơ chế để phát triển
Cùng với đó, cần thống nhất quy hoạch và chiến lược phát triển kinh tế vùng sau sáp nhập. Quy hoạch vùng Đông Nam Bộ phải được cập nhật lại để phân bổ rõ vai trò và lợi thế của từng địa bàn trong vùng mới. Thành phố Hồ Chí Minh cần được xác định là trung tâm công nghiệp-tài chính-cảng biển-công nghệ cao của vùng; Đồng Nai giữ vai trò trung tâm logistics và sản xuất công nghiệp; Tây Ninh tập trung phát triển năng lượng tái tạo và kết nối thương mại với Campuchia.
Quy hoạch phải chỉ rõ danh mục các dự án hạ tầng liên vùng mang tính “xương sống” như hệ thống vành đai, cao tốc, logistics, các trục kết nối cảng biển. Việc này cần được thể chế hóa thành quyết định của Thủ tướng hoặc quy định của Chính phủ để bảo đảm các địa phương thực thi thống nhất và tránh chồng chéo trong bố trí không gian phát triển.
Vùng Đông Nam Bộ là địa bàn tiềm năng, lợi thế và là động lực quan trọng cho tăng trưởng của đất nước trong kỷ nguyên mới, do đó cần được thúc đẩy phát triển mạnh mẽ để đóng góp ngày càng lớn vào tăng trưởng kinh tế của cả nước. Cụ thể hóa điều này, yêu cầu cấp thiết là phải hoàn thiện cơ chế điều phối vùng Đông Nam Bộ đủ thẩm quyền và hiệu lực, nhằm khắc phục các điểm nghẽn nội tại và tạo động lực tăng trưởng mới trong bối cảnh sáp nhập đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Trong đó, cần hoàn thiện thể chế điều phối vùng bằng cách xây dựng khung pháp lý mang tính ràng buộc. Khung pháp lý mới cần quy định cơ chế phê duyệt chung đối với các dự án liên vùng, quy trình lập kế hoạch đồng bộ giữa bộ, ngành và địa phương, cũng như thiết lập công cụ giám sát định kỳ. Điều này phù hợp với kiến nghị liên kết đồng bộ bốn lĩnh vực then chốt: Phân bổ không gian kinh tế-ngành; hạ tầng; môi trường; thị trường lao động chung.
Tiến sĩ Hoàng Văn Tú cho biết: Đông Nam Bộ cần được áp dụng chính sách tài chính đặc thù nhằm tạo nguồn lực ổn định cho các dự án liên tỉnh. Giải pháp trọng tâm là thành lập Quỹ Phát triển vùng Đông Nam Bộ, hình thành từ ngân sách Trung ương, đóng góp của các địa phương và các nguồn hợp pháp khác, quỹ này sẽ dùng để đầu tư hạ tầng trọng điểm mà một tỉnh riêng lẻ khó thực hiện. Đồng thời, trong bối cảnh sáp nhập, cần điều chỉnh tỷ lệ điều tiết ngân sách của Thành phố Hồ Chí Minh để bù đắp tương quan thu-chi giữa các địa phương nhập vào và bảo đảm phân bổ công bằng lợi ích. Đông Nam Bộ cũng có thể thí điểm cơ chế ưu đãi thuế chung toàn vùng, ưu tiên vốn ODA, vốn ngân hàng phát triển cho các công trình chiến lược, phù hợp với chủ trương “mở rộng diện thí điểm cơ chế đặc thù” của Bộ Tài chính.