Cuộc tổng tuyển cử bầu QH ngày 10-4 ở Nepal là kết quả của tiến trình hòa bình (PP) và dân chủ được khởi động từ tháng 11-2005. Việc thành lập Liên minh bảy đảng (SPA) có sự đồng tình của Ðảng CS Nepal-M (CPN-M) với mục đích chấm dứt nội chiến, xây dựng nền dân chủ, phát triển đất nước. Cao trào đấu tranh vì dân chủ buộc Quốc vương phải lập lại QH trao quyền cho SPA lập Chính phủ lâm thời.
Tháng 11-2006, Chính phủ và CPN-M ký Hiệp định hòa bình quốc gia. Chấm dứt mười năm nội chiến làm 13 nghìn người chết, 70 nghìn người phải tị nạn. Cuộc tổng tuyển cử bầu QH dự định tiến hành vào tháng 6-2007 bị đình hoãn vì lý do an ninh, tài chính và không chuẩn bị kịp. Cuộc tổng tuyển cử dự định tiến hành vào tháng 11-2007 bị hủy bỏ vì các bất đồng về nguyên tắc bầu cử và thể chế tương lai cho Nepal.
Cuối năm 2007, SPA và CPN-M đạt được thỏa thuận 23 điểm, trong đó ấn định ngày bầu cử, tuyên bố thành lập nước CH liên bang Nepal ngay sau tổng tuyển cử và cơ cấu QH, cũng như nguyên tắc bầu cử.
QH mới của Nepal có 601 ghế (hiện nay có 497), trong đó 355 ghế được bầu theo tỷ lệ phiếu ủng hộ của cử tri đối với các đảng (PR), 240 ghế được bầu trực tiếp và các đảng có nhiều ghế được chỉ định 26 thành viên của mình tham gia QH. Các đảng phái chính trị ở Nepal đã giới thiệu ứng cử viên tranh cử. Có 3.947 ứng cử viên gồm 2.806 nam giới và 367 nữ giới cùng 774 ứng cử viên độc lập trong danh sách bầu trực tiếp.
Ngày 24-1, Hội đồng Bảo an LHQ (HÐBA) ra Nghị quyết 1796 (2008) gia hạn thêm sáu tháng hoạt động của Phái bộ LHQ tại Nepal (UNMIN), theo yêu cầu của Chính phủ Nepal và kiến nghị của Tổng Thư ký LHQ. UNMIN được thành lập ngày 23-1-2007 theo Nghị quyết 1740 của HÐBA với nhiệm vụ chính là giám sát, kiểm soát vũ khí và binh sĩ của các bên; theo dõi, hỗ trợ cuộc bầu cử tại Nepal. UNMIN có thời hạn hoạt động 12 tháng, sau đó có thể kéo dài hoặc chấm dứt, tùy thuộc quyết định của HÐBA trên cơ sở yêu cầu của Chính phủ Nepal.
Ngày 27-3, HÐBA có phiên họp tham vấn về tình hình Nepal trước bầu cử đã ra khuyến nghị UNMIN trong việc giám sát và hỗ trợ công tác chuẩn bị và tổ chức bầu cử. UNMIN cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với chính phủ Nepal phù hợp chức năng nhiệm vụ của mình trên cơ sở tôn trọng độc lập chính trị và chủ quyền của Nepal, cũng như quyền tự chủ của Nepal trong việc thực hiện PP. Có 810 quan sát viên quốc tế giám sát cuộc bầu cử, trong đó Ủy ban châu Âu (EC) cử Phái đoàn quan sát bầu cử (EOM), gồm 110 người. Trong số 74 đảng phái chính trị ở Nepal đưa người ra tranh cử chia làm ba khối chính: khối các đảng CS, công nhân cánh tả, và các đảng dân chủ thiên tả; nhóm các đảng theo đường lối trung dung và nhóm các đảng phái bảo hoàng.
Hai đảng lớn thuộc khối các đảng CS và cánh tả gồm: Ðảng CS Nepal Mác-xít Lê-nin-nít Thống nhất (CPN-UML) và CPN-M. CPN-UML sáp nhập năm 1991, trong cao trào đấu tranh chống chế độ chuyên chế. Trong cuộc tổng tuyển cử năm 1994, CPN-UML giành nhiều ghế nhất được quyền lập Chính phủ liên minh với hai đảng dân chủ thiên tả.
Ông M. Adhikari làm Thủ tướng, Tổng Bí thư CPN-UML C.Nepal làm Phó Thủ tướng. Năm 1995, Chính phủ của CPN-UML bị đổ do không còn đa số tại QH. CPN-M của ông K. Dahan (Prachanda) phát động cuộc chiến tranh nhân dân vào đầu năm 1996 với mục đích thành lập một nhà nước CH. Ngoài ra, còn nhiều đảng công nhân và cánh tả khác như: Ðảng CS Nepal Mác-xít, Ðảng CS Nepal, Ðảng Công nhân và Nông dân Nepal (NWPP) của Chủ tịch M. Bijukchhe, các đảng phái cánh tả trong Mặt trận Modesi Dân chủ thống nhất (UDMF), cùng một số chính đảng dân chủ thiên tả khác...
Phái trung dung gồm nhiều đảng: đảng lớn nhất là đảng Quốc đại Nepal (NCP) thành lập năm 1947, của cựu Thủ tướng P. Koirala (ông từng năm lần giữ chức Thủ tướng); các đảng quốc đại tách ra từ NCP; Ðảng Dân chủ Quốc gia Nepal (RPP); Ðảng Thiện chí Nepal...
Lực lượng bảo hoàng: đảng RJP của cựu Thủ tướng B. Thapa và một số đảng khác như JN của cựu Thủ tướng S. Bahadur...
Lựa chọn đại diện vào QH là quyền của cử tri Nepal trong cuộc tổng tuyển cử dân chủ, tự do, công bằng, phổ thông đầu phiếu. Có những dự đoán khác nhau về kết quả bầu cử. Nhưng nhiều cử tri Nepal, nhất là cử tri trẻ mong muốn một sự thay đổi ở đất nước này.
| Tư liệu về Nepal Thủ đô: Kathmandu. Ngôn ngữ chính thức: tiếng Nepal. Diện tích: 147,181 km2 (hạng 94). Có đỉnh Everest (8.850 m) nóc nhà thế giới. Nepal được chia ra thành 14 khu vực hành chính có 75 quận. Dân số: 28,9 triệu người (hạng 40). Lực lượng lao động 11,11 triệu, tỷ lệ thất nghiệp 42%. Tỷ lệ tăng dân số 2,132%. Chỉ số bất bình đẳng thu nhập (Gini) 47,2%. Chỉ số phát triển con người (HDI): 0,526 (trung bình) (hạng 136). Năm 2007, GDP: 9,627 tỷ USD, bình quân đầu người 330 USD, tăng GDP 2,5%. GDP: nông nghiệp 38%, công nghiệp 20%, dịch vụ 42%. GDP (PPP): 30,66 tỷ USD (hạng 81). Tính theo đầu người: 1,060 USD (hạng 196). Thu ngân sách: 1,153 tỷ USD, chi: 1,927 tỷ USD. Xuất khẩu: 830 triệu USD. Nhập khẩu: 2,398 tỷ USD. Nợ nước ngoài: 3,07 tỷ USD. Ðơn vị tiền tệ: rupee Nepal (NPR). |