Xuất hiện đầu tiên ở I-ta-li-a năm 1547 và ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương vào đầu thế kỷ 19, tiêu biểu là khu mậu dịch tự do Xin-ga-po (1819), khu mậu dịch tự do Hồng Công (Trung Quốc) (1842), đến nay, trên thế giới đã có hơn 3.500 đặc khu và khu kinh tế tự do tại hơn 135 quốc gia. Trung Quốc được coi là nước có nhiều thành công trong xây dựng đặc khu kinh tế. Ở quốc gia này, các đặc khu kinh tế đang đóng góp khoảng 22% GDP, 45% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và 60% kim ngạch xuất khẩu hằng năm… Đặc khu kinh tế là nơi gửi gắm nhiều kỳ vọng của các quốc gia cũng như tạo sức hấp dẫn với không ít nhà đầu tư từ những thí điểm mang tính đột phá phục vụ mục tiêu mở rộng các thể chế kinh tế hiện hành, mở rộng cơ hội tiếp cận các xu hướng môi trường kinh doanh, quản lý tiên tiến nhất của khu vực và quốc tế, tạo hấp lực thu hút các nguồn vốn, công nghệ hiện đại, nhân tài, ý tưởng phát triển và mô hình kinh doanh mới, gia tăng tiến trình và định hướng cơ cấu lại kinh tế, cải thiện nguồn thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, mở rộng thị trường trong nước và ngoài nước…
Thực tiễn thế giới đã và đang cho thấy, mức độ thành công của một đặc khu kinh tế tùy thuộc vào địa điểm được lựa chọn xây dựng. Ngoài yêu cầu về bảo đảm an ninh, quốc phòng, điểm đặt đặc khu kinh tế cần phát huy lợi thế riêng của địa phương hoặc khu vực, thuận lợi cho quá trình giao thương, hợp tác kinh tế, du lịch và dịch vụ quốc tế (như: nằm gần các đô thị chính, các trung tâm kinh tế, dịch vụ và văn hóa, có nguồn nhân lực chất lượng cao dồi dào, có hệ thống giao thông phát triển và cơ sở hạ tầng kỹ thuật vững chắc,...), tạo lợi thế địa kinh tế cho sự hội tụ, giúp liên kết và lan tỏa cao nhất hiệu ứng tích cực cho khu vực và toàn quốc. Đồng thời, để hoạt động hiệu quả, đặc khu kinh tế cần có những thể chế kinh tế và hành chính linh hoạt, tự chủ cao, tạo điều kiện tốt nhất cho nhà đầu tư, nhất là thu hút các nhà đầu tư chiến lược từ bên ngoài; phát triển cơ cấu ngành nghề đa dạng, cả về chế tạo và dịch vụ, trong đó ưu tiên các ngành dịch vụ trung gian và dịch vụ hậu cần hỗ trợ kinh doanh; tiếp cận thị trường đa dạng, cả bên trong lẫn bên ngoài đặc khu, ưu tiên hướng về xuất khẩu. Có thể thấy, các đặc khu kinh tế hiện đại thường mang dáng dấp của một đô thị độc lập và quốc tế hóa cao. Tổ chức chính quyền địa phương ở đặc khu thường được giảm bớt cấp trung gian, được phân quyền quản lý, có những chế độ ưu đãi về thuế và hoạt động tài chính, tiền tệ, ngân hàng, đất đai, giao thông và các điều kiện hỗ trợ kinh doanh và giao dịch quốc tế liên quan…
Vấn đề xây dựng các đặc khu kinh tế đã được Đảng, Nhà nước Việt Nam quan tâm và đặt ra từ hơn 20 năm trước. Hiện chủ trương xây dựng đặc khu kinh tế đang đi vào giai đoạn hiện thực hóa, cụ thể là việc thí điểm thành lập các khu hành chính - kinh tế đặc biệt tại Vân Đồn (Quảng Ninh), Vân Phong (Khánh Hòa), Phú Quốc (Kiên Giang). Theo dự án luật đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt được thảo luận tại Quốc hội ngày 10-11 vừa qua, một loạt ưu đãi đặc thù đã được đề xuất để bảo đảm cho sự thành công của các khu hành chính - kinh tế đặc biệt này, tập trung vào các nội dung chính như: đáp ứng yêu cầu về bộ máy quản lý hành chính tinh gọn và hiệu quả, được phân cấp, phân quyền, giao quyền tự chủ mạnh, nhất là quyền lập quy về kinh tế; đơn giản hóa thủ tục hành chính và xóa bỏ hạn chế về đầu tư kinh doanh; thiết lập nội dung quản lý và các mức ưu đãi vượt trội thông thường, có tính cạnh tranh quốc tế cao, nhất là về ưu đãi thuế, phí; ưu đãi đầu tư vào ngành, nghề ưu tiên phát triển trong từng thời kỳ phù hợp nhu cầu thị trường mà Việt Nam có lợi thế so sánh. Sự hỗ trợ ban đầu của Chính phủ được dành để đầu tư hạ tầng quan trọng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao...
Theo ý kiến đánh giá của nhiều chuyên gia, hầu hết nội dung quy định tại dự án luật Đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt cho thấy, những chính sách về môi trường đầu tư kinh doanh; phát triển kết cấu hạ tầng; dịch vụ hỗ trợ đầu tư; ưu đãi đầu tư; đất đai; lao động; giải quyết tranh chấp; thu hút kiều hối; xuất nhập cảnh,… đều có ưu đãi cao hơn, thuận lợi hơn so với các đặc khu kinh tế, khu kinh tế tự do ở Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, In-đô-nê-xi-a, Ma-lai-xi-a, Thái-lan, Xin-ga-po, Mi-an-ma. Đáng chú ý, Dự án đề xuất quy định thời hạn sử dụng đất tối đa tới 99 năm đối với các dự án đầu tư khu hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo, nghiên cứu và phát triển, y tế, giáo dục, dự án đầu tư thuộc ngành, nghề ưu tiên phát triển; cho phép tổ chức, cá nhân nước ngoài có quyền chuyển nhượng, nhận chuyển nhượng, mua, cho thuê mua, nhận tặng, cho, nhận thừa kế nhà ở thương mại trong dự án đầu tư xây dựng nhà ở và dự án đầu tư bất động sản nghỉ dưỡng; nâng mức giá trị bán hàng miễn thuế cho khách du lịch tại khu phi thuế quan; miễn thị thực với thời gian tạm trú không quá 60 ngày và cấp thị thực điện tử cho người nước ngoài; cho phép các hãng hàng không quốc tế kết hợp nhiều điểm, trong đó có ít nhất một điểm đến hoặc một điểm đi tại đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; áp dụng mức thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt đối với dịch vụ kinh doanh casino, kinh doanh đặt cược thấp hơn mức thuế suất hiện hành để cạnh tranh với các quốc gia khác trong khu vực...
Mô hình tổ chức chính quyền cho đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt sẽ không có hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, mà chỉ có Trưởng đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt, được thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn do Thủ tướng Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ, UBND cấp tỉnh giao.
Thực tế cho thấy, thành công của đặc khu không đến dễ dàng. Theo Ngân hàng Thế giới, việc 50% số đặc khu và khu kinh tế tự do trên toàn cầu đã thất bại sẽ đặt ra không ít vấn đề, nhất là về cơ sở pháp lý cho mô hình tổ chức, quản lý sự phân cấp và thẩm quyền của người đứng đầu đặc khu; cơ chế giám sát quyền lực và phòng ngừa nạn tham nhũng, lộng quyền, trục lợi chính sách; định hướng phát triển ngành nghề phù hợp... Hơn nữa, bên cạnh các khoản chi phí lớn và áp lực tăng nợ hoặc vỡ nợ do đầu tư hạ tầng, sự phát triển thái quá, nguy cơ thất thu thuế,... một số đặc khu kinh tế cũng có thể tạo ra sự méo mó trong đời sống kinh tế - xã hội của địa phương và quốc gia, không tạo ra cơ hội việc làm tương xứng với chi phí, và phát triển theo mục tiêu.
Sự hào hứng, dễ dãi trong thành lập cũng như thiếu cơ chế kiểm soát phù hợp cho các đặc khu rất dễ dẫn tới tình trạng thiếu hiệu quả trong đầu tư xã hội, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh và nguy cơ trở thành “bãi thải” của công nghiệp lạc hậu, ô nhiễm môi trường...
Rõ ràng, các ưu đãi về kinh tế và quản lý hành chính cho các khu kinh tế tự do là cần thiết, tuy nhiên, vấn đề là thiết lập cơ chế kiểm soát để bảo đảm hoạt động của các khu hành chính - kinh tế đặc biệt thống nhất với thể chế chính trị - xã hội quốc gia, đề phòng sự quay trở lại của cơ chế “xin - cho”. Đồng thời, với đề xuất giao đất lâu dài cho các đặc khu kinh tế, cần có cơ chế phòng tránh chặt chẽ, đủ hiệu lực để ngăn chặn tình trạng “chảy máu” đất đai tại các đặc khu vào tay các nhà đầu tư không thân thiện.
Lợi thế đi sau giúp chúng ta có điều kiện để rút kinh nghiệm của người đi trước, nhưng cũng cần thiết phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, cẩn trọng cho việc xây dựng và vận hành các khu kinh tế đặc biệt, có cơ chế kiểm soát chặt chẽ để mô hình này thật sự phát huy hiệu quả, góp phần tích cực tạo sức vươn mạnh mẽ cho kinh tế đất nước.