Bão là một hiện tượng thời tiết xuất phát từ đại dương thường xảy ra ở vùng nhiệt đới. Nhìn chung người ta thường phân chia cấp độ của nó theo vận tốc gió xoáy. Khi gió không quá 63km/g thì người ta gọi đó là “áp thấp nhiệt đới” (được đánh số khi bắt đầu vào một quốc gia nào đó); khi sức gió nằm trong mức 63-117km/g thì người ta gọi đó là bão nhiệt đới (được gọi theo tên).
Ở mức trên 117km/g thì bão được phân chia theo năm cấp về sức gió của thang xếp hạng Saffir-Simpson. Theo đó ở cấp 1, sức gió tối đa trong khoảng 118km/g-153km/g, cấp 2 (154-177km/g), cấp 3 (178-209km/g), cấp 4 (210-249km/g) và ở cấp 5 thì được gọi là “siêu bão” vì sức gió vượt quá 249km/g.
Một thang xếp hạng khá thông dụng khác có tên gọi Dvorak xếp hạng bão theo mức từ 0-8 và chủ yếu dựa trên những hình ảnh thu được từ vệ tinh. Thang xếp hạng này rõ nét hơn vì chia nhỏ các mức ra với mức 1 là khi sức gió dưới 45km/g và mức 8 là khi sức gió đạt đến trên 300km/g.
Đặt tên cho dễ nhớ
Người ta đặt tên cho bão để dễ nhớ và là cách tạo mối giao tiếp giữa các nhà dự báo thời tiết, các nhà khoa học với công chúng. Do bão kéo dài nhiều ngày và có thể có nhiều trận bão xảy ra cùng lúc ở những địa điểm khác nhau (thậm chí cùng khu vực như Katrina và Rita hiện nay) nên đặt tên là cách để phân biệt, tránh gây nhầm lẫn, đặc biệt trong việc trao đổi thông tin giữa các trạm khí tượng, sân bay, tàu thuyền ngoài khơi...
Trước kia bão thường được đặt theo tên thánh của ngày mà nó xuất hiện. Nhà dự báo thời tiết người Australia Clément Wragge được cho là người đầu tiên dùng tên người gán tên cho bão từ đầu thế kỷ 20. Lần đó vì tức giận một chính trị gia trong nước mà ông Wragge đã gán tên vị này cho cơn bão để “chửi xéo” cho hả giận.
Ở Mỹ, tiểu thuyết gia George R. Stewart dùng tên phụ nữ đặt cho bão trong tiểu thuyết Cơn bão xuất bản năm 1941 của mình. Việc dùng tên người gọi tên bão xuất hiện thường xuyên trong thời Thế chiến thứ hai. Người ta cho rằng chính các nhà dự báo thời tiết của không quân và hải quân Mỹ đã dùng tên bạn gái hoặc vợ để đặt cho những trận bão mà họ đang theo dõi trong Thái Bình Dương.
Thói quen này được Văn phòng thời tiết Mỹ chính thức áp dụng từ năm 1953. Mãi đến năm 1979, Tổ chức Thời tiết quốc tế (WMO) và Cơ quan thời tiết Mỹ (NWS) mới quyết định xen kẽ tên nữ và tên nam dành gọi tên bão trong năm.
Khi cơn bão gây ra thảm họa nhân mạng hoặc tài sản quá nhiều thì tên của nó sẽ bị rút khỏi bảng danh sách đặt tên đã được ấn định trước để tránh gây những đau buồn khi bảng danh sách tên quay vòng trở lại (trong năm 1995 có đến bốn tên bão bị rút khỏi danh sách). Như cái tên Katrina đã vĩnh viễn bị xóa sổ sau tháng 8-2005. Trong trường hợp phải rút tên, một ủy ban của WMO có nhiệm vụ chọn tên khác thay thế trong phiên họp thường niên.
Hiện nay có sáu danh sách tên bão nên tên bão trong năm sẽ xoay vòng theo chu kỳ sáu năm (chẳng hạn tên bão của năm 2005 sẽ trở lại vào năm 2011). Người ta không đặt tên bão bắt đầu bằng chữ cái Q, U, X, Y và Z vì không có nhiều tên bắt đầu bằng những chữ cái này.
Ở khu vực tây bắc Thái Bình Dương, tên các cơn bão được thay đổi theo tên châu Á từ đầu năm 2000. Đặc biệt tên bão không còn nhất thiết theo tên người mà có thể là tên hoa, cây trái, thú vật, chim chóc và thậm chí tên thực phẩm. 14 quốc gia và lãnh thổ ở khu vực này cung cấp 10 tên bão của mỗi quốc gia. VN đưa ra các tên như Saomai, Lekima, Bavi, Conson, Sonca…
Những kỷ lục của bão
Cho đến nay siêu bão TIP xảy ra ở khu vực tây bắc Thái Bình Dương vào ngày 12-10-1979 vẫn giữ vững kỷ lục mạnh nhất, sức gió đạt 305km/g và áp suất đạt 870 hectoPascals (áp suất đạt dưới 920 hPa là được xếp vào hàng siêu bão). Bão Camille năm 1969 ở vịnh Mexico và bão Allen năm 1980 ở biển Caribes cũng từng đạt sức gió 305 km/g nhưng áp suất cao hơn của TIP. Siêu bão TIP cũng giữ kỷ lục về đường kính ảnh hưởng lớn nhất khi nó bao phủ một vùng đường kính đến 2.200km với sức gió ở rìa cũng đạt đến 60km/g.
Cơn bão tăng cường độ nhanh nhất là Forrest cũng ở tây bắc Thái Bình Dương hồi tháng 9-1983. Nó giảm áp từ 976 hPa xuống còn 876 hPa trong chưa đầy 24 giờ để đẩy sức gió từ 120km/g lên 285km/g. Cơn bão “sống lâu” nhất là bão John khi nó thong dong tàn phá ở Thái Bình Dương đúng 31 ngày từ tháng tám đến tháng 9-1994. Ở Đại Tây Dương cũng từng chứng kiến bão Ginger hoành hành suốt 30 ngày từ 5-9 đến 4-10-1971. Gây thiệt hại nhân mạng nặng nhất trong thế kỷ 20 là trận bão năm 1970 tại Bangladesh với khoảng 300.000 người thiệt mạng.
Bão hình thành khi xuất hiện đồng thời một số điều kiện thích hợp (nhiệt độ nước biển cao hơn 260C, độ ẩm cao - khí quyển không ổn định, sức gió ở tầng khí quyển thấp và cao không khác biệt, vĩ độ cao hơn 5 độ) nên có một số khu vực ít bị bão và một số khu vực phải đón tiếp bão thường xuyên.
Tính theo các số liệu của 20-30 năm gần đây, trung bình mỗi năm có 80-85 trận bão xuất hiện trên Trái đất và trong số đó có 45 trận có sức gió trên 117km/g. Khu vực bắc bán cầu đón nhận nhiều bão nhất (68% số trận bão với mùa bão rơi vào khoảng tháng 6-11). Ở nam bán cầu mùa bão kéo dài từ tháng 11-4, thậm chí tháng năm. Theo khu vực nhỏ hơn thì tây bắc Thái Bình Dương là “rốn bão” khi đón nhận 25,7% số trận bão hằng năm, thứ đến là đông bắc Thái Bình Dương với 16,5%.