Họ rảo theo những cung đường mòn song song các dãy núi, gùi trên lưng và xà gạt cầm tay, du hành về phía biển, mang sản vật miền Thượng đổi lấy vị mặn của biển khơi. Và, trên những cung đường “hạt muối năm xưa” ấy, đã nảy nở những thâm tình.
Mang âm hưởng bản Tình ca Tây Nguyên, tôi lang thang lần theo tích cũ trên cung đường huyền thoại nam Tây Nguyên. Mùa khô, cung đường nối thành phố hoa Đà Lạt và phố biển Nha Trang nắng vàng tơ. Phía chân núi Bidoup, buôn Đưng K’si, xã Đạ Chais, huyện Lạc Dương, tỉnh Lâm Đồng yên bình đến lạ. Bên hiên nhà vừa mới cất cách nay chưa lâu, già Bon Tô Xa Nga phà khói thuốc vào thinh không, nhìn về phía núi. - Chuyện con đường muối à? Dài lắm…, ông mở lời. Ở vùng đất này có hai tuyến đường xưa cha ông thường “lòt drà” (đi chợ), khi mùa màng thu hoạch xong. “Nói là “lòt drà”, nhưng ngày xưa, miền Thượng làm gì có chợ. Muốn đổi chác, mua sắm phải xuống tận miền biển Ninh Thuận, Bình Thuận, Khánh Hòa mới có họp chợ và hạt muối cũng theo cái gùi bà con về với buôn làng”, già Xa Nga hồi tưởng.
Trong ký ức của già làng Cơ Ho, Mạ, Chu Ru… trên miền đất Tây Nguyên huyền ảo, hẳn chưa thể lạt phai về con đường “đủ bàn chân đi” cắt ngang những cánh rừng, để người miền Thượng gùi sản vật xuống miền biển đổi chác, cõng về những hạt muối trong sự chờ đợi của bà con buôn làng. Qua bao chu kỳ hành trình “cõng” hạt muối, đã có những mối tình “gừng cay, muối mặn” nảy nở, kết trái đến tận bây giờ.
Nắng lên. Đỉnh Bidoup bồng bềnh mây trắng, như mái tóc buông xõa của bà Cil KVơr giữa cung đường làng. Đã qua hơn 70 mùa rẫy, nhưng đôi chân người đàn bà một thời băng rừng trên “cung đường muối” vẫn còn khỏe khoắn. Bà nói: “Hạt muối ngày xưa với người Tây Nguyên quý lắm. Nhưng, những chuyến phiêu lưu như thế, việc mua bán, đổi chác không quan trọng bằng việc trao đổi tình nghĩa với nhau, cho nên “lòt drà” cũng coi như là “đi chơi chợ” vậy. Nhờ những chuyến “lòt drà” mà mình “bắt” được chồng”.
Xưa, người Thượng ở vùng này thường đi “chơi chợ” như vậy vào mùa khô hằng năm. Mỗi lần “lòt drà” họ đi khá đông, khung cảnh như mùa hội, có khi cả tháng mới về và chỉ về cho kịp lúc những chồi non đội đất chui lên, mùa rẫy đã tới.
Ở vùng Đạ Chais, Đạ Nhim phía chân Bidoup có hai “cung đường muối” vẫn còn dấu tích. Xuôi theo dòng Đạ Mưng về Ninh Thuận và theo triền Hòn Giao, vượt suối Máu về Khánh Hòa. Hôm ấy, khi hoàng hôn vừa buông giữa rừng già, bà Cil KVơr thông báo với bà con buôn làng trong đoàn người lữ hành về phía biển, rằng cái bụng bà đã thương ông Ha Lai. Cũng trong những chuyến phiêu lưu miền xuôi đó, bà KGlang ở buôn Đưng K’si này đã “bắt” được ông Ca Tơr Tự, người con đồng bào Ra Glai về với buôn làng Cơ Ho.
(2) Thiếu nữ Cơ Ho Lạch dưới chân Lang Biang.
Thông thường, người Tây Nguyên lấy nhau trong tộc người của mình. Những cuộc hôn nhân với “người ngoài” rất hiếm, tuân theo sự gần gũi nhau vốn có giữa tộc người này và tộc người kia. Và cung đường tìm vị mặn mòi xứ biển đã tạo nên sự gắn kết. Trong không gian buôn làng Đưng K’si, chúng tôi đã nghe được rất nhiều ngữ hệ.
Theo bước chân chàng trai miền sơn cước K’Vâng, người dẫn đường chuyên nghiệp trên những cung đường rừng nối miền Thượng và miền biển, anh bảo: “Cung đường này khoảng 30 km. Những người già trong các buôn làng Cơ Ho nơi đây nói chắc nịch, đây là “con đường muối năm xưa”. Giờ là cung đường trải nghiệm quyến rũ. Có lẽ, không khí trekking cũng giống cha ông mình ngày xưa qua những câu chuyện kể. “Con đường muối” chỉ là tên gọi, thể hiện sự giao thương miền Thượng - miền xuôi, cái cốt là thú về rừng, đi làng người, ngao du như lữ khách. Và những cuộc du hành như thế đã tạo sự gần gũi giữa các tộc người”.
Men theo dòng Đạ Mưng, xuôi hướng biển. Hành trình băng rừng kéo dài trong ba ngày, hai đêm; lần lượt qua hệ sinh thái đặc trưng của rừng á nhiệt đới, đây rừng thông ba lá, pơ mu, rừng rêu, lan rừng, lác đác những cây phong mùa thay lá đẹp như tranh. Bình minh khác biệt giữa rừng. Nắng len lén trườn qua kẽ lá, rót xuống từng sợi lung linh giữa làn sương mờ tỏ. Chim C’rao đã cất tiếng gọi bầy và hành trình “theo dấu cha ông” vẫn tiếp tục…
K’Vâng bảo, nhiều già làng nam Tây Nguyên kể rằng: Xưa, lúc khởi hành, ngoài những món hàng để đổi chác, đoàn người “đi xuôi” chỉ đem theo gạo và ít muối, đó là hai món cần thiết. Còn các thức ăn khác thì rừng núi, suối sông sẽ cho thừa thãi.
Ðêm, về với buôn làng người Chu Ru ở R’Lơm, Đơn Dương, Lâm Đồng. Già làng Ya Loan đang khơi hồng bếp lửa. “Đi chợ, người Cơ Ho nói là “lòt drà”, còn người Chu Ru mình gọi là “nau drà”. Trảy phiên chợ xa đổi muối có lẽ là cái cớ. Đó là mùa đi, mùa lữ hành, mùa “đi làng người”, như cái thú của người Tây Nguyên vậy”, già Ya Loan nói. Song, trong sự phóng khoáng ấy của cư dân đại ngàn cũng có quy ước, dù đoàn người có đông đến mấy, họ vẫn đi theo hàng một; có lẽ bề ngang con đường không cho phép lối đi nào khác được. Một người trẻ đi trước, đàn bà đi giữa, già làng đi sau. Khi sắp đến làng, người lại thay đổi vị trí, già làng lên trước để là người đầu tiên bước vào làng.
(3) Buôn làng vào hội.
Theo một số tài liệu, cùng những “cung đường muối” phía cao nguyên Lang Biang, xuôi cao nguyên Di Linh là đường mòn Phan Rí (Gun Phô rí), đường mà bác sĩ A.Y-éc-xanh đã có dịp thám hiểm vào năm 1890 và đường mòn Phan Thiết (Gun Bơ Jai), về sau trở thành trục lộ Ma Lâm - Di Linh.
Bình minh đã dát bạc bầu trời, bảng lảng sương trên những ngọn núi. Bếp lửa già làng vẫn đủ ủ ấm chén trà đêm qua, chợt nhớ chuyện “lòt drà” trong Miền đất huyền ảo của Dam Bo (tức Jacques Dournes, nhà dân tộc học người Pháp): “Họ đi theo những con đường truyền thống xuyên qua vùng Tây Nguyên từ tây bắc xuống đông nam, vượt qua núi, men theo các đỉnh, đổ xuống đồng bằng và cuối cùng đến Phan Thiết, hoặc Phan Rang, Nha Trang…
Các cuộc du hành có khi kéo đến nhiều tuần, vì mang nặng, ấy là những dịp vui thú, mà những người Tây Nguyên ngày nay kể lại một cách thích thú”.